✨Nguyễn Thị Hoàn

Nguyễn Thị Hoàn

Nguyễn Thị Hoàn, tên hiệu Ý Tĩnh Khang hoàng hậu (chữ Hán: 懿靜康皇后, 1736 - 30 tháng 10 năm 1811), hay Hiếu Khang hoàng hậu (孝康皇后), là chính thất phu nhân của Nguyễn Phúc Luân, mẹ đẻ của vua Gia Long. Sau khi lên ngôi, Gia Long tôn bà làm Hoàng thái hậu, trở thành Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Nguyễn.

Thái hậu có vai trò quan trọng trong việc động viên vua Gia Long, gây dựng cơ nghiệp họ Nguyễn thống nhất đất Nam.

Tiểu sử

Bà tên thật là Nguyễn Thị Hoàn (阮氏環), người ở làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên, con gái Diễn quốc công Nguyễn Phúc Trung (阮福忠) , mẹ là Phùng phu nhân người ở làng An Du. Chị gái ruột của bà chính là bà Từ Phi của Nguyễn Phúc Luân. .

Bà vào hầu Nguyễn Phúc Luân ở nhà để học các phép tắc trong chốn khuê môn. Sau đó, bà sinh ra ba con trai và một con gái: con trưởng tức Đông Hải quận vương Nguyễn Phúc Đồng (阮福晍), con thứ 2 chính là Nguyễn Ánh, con thứ 3 là Thông Hóa quận vương Nguyễn Phúc Điển (阮福晪). Người con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Tú (阮氏玉琇), sinh vào năm 1760, lớn hơn Nguyễn Ánh khoảng 2 tuổi, có lẽ bà là em của Nguyễn Phúc Đồng.

Cuối năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh đánh chiếm Phú Xuân, bà đến làng An Du ẩn nấp cùng các con gái. Mùa xuân năm Kỷ Hợi (1779), Nguyễn Ánh sai người rước bà đến Gia Định, gặp lúc quân Tây Sơn vào đánh cướp, Nguyễn Ánh phải lẩn đi chỗ khác; bà cùng các con dâu lại đóng ở đảo Phú Quốc. Nguyễn Ánh sau đó cũng chạy ra đảo Phú Quốc.

Mùa xuân, Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh sang Xiêm La cầu viện, bà lại cùng gia quyến của ông đóng ở đảo Thổ Châu; quân cầu viện thất bại, bà lại cùng gia quyến trở lại đảo Phú Quốc.

Mùa thu, Mậu Thân (1788), quân Nguyễn lấy lại được Gia Định, liền sai Nguyễn Văn Nhân đón bà về Gia Định; năm Canh Tuất (1790) dựng điện rước bà đến ở.

Năm Bính Thìn (1796), mùa đông, tháng 10, Nguyễn Ánh dâng sách vàng tấn tôn bà làm Quốc mẫu Vương thái phi (國母王太妃). Khi hoàng đế lấy lại được đô thành (1801), ông ra ơn cho làng An Du đã cưu mang mẹ ông, mọi dịch thân thuế đều miễn cho cả.

Năm 1802, tháng 3, Gia Long tôn bà làm Vương Thái hậu (王太后). Bấy giờ, truy phong cho tổ phụ Nguyễn Phúc Kiên (阮福兼) làm Dương Vũ công thần Khai phủ phụ quốc Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Thiếu úy, tước Đôn Hậu Quận công (敦厚郡公). Thân phụ Phúc Trung là Tán Nghị công thần Thượng trụ quốc Đô đốc phủ chưởng phủ sự Thái bảo, tước Diễn quốc công (演國公). Lập đền thờ ở xã An Du, cho điệt ôn, cháu gọi Phùng phu nhân là cô, làm chức Cai đội, coi giữ việc thờ tự ở đây.

Năm 1804 Gia Long dựng Cung Diên Thọ và rước bà đến ở. Gia Long thân đến làm lễ chúc mừng, các quan và mệnh phụ đều dâng vàng bạc làm lễ phẩm tiến lên. Các con tiến 20 lạng vàng, 100 lạng bạc; mệnh phụ tiến 10 lạng vàng, 50 lạng bạc.

Năm 1806, mùa thu, tháng 7, Nguyễn Ánh dâng kim sách tôn bà làm Hoàng thái hậu. Mùa thu năm 1807, lúc đó Thái hậu được 70 tuổi, Gia Long tổ chức Khánh tiết lớn trong ngoài kinh thành. Các quan lại, hoàng tử, cung phi, các công thần ở Tống Sơn, họ Lê, họ Trịnh đều đến chúc mừng và dâng lễ vật. Sai nhạc công múa Bát dật, hát các khúc Vạn niên hoan, Thiên hạ lạc, Thái bình lạc.

Băng thệ và hậu sự

Tháng 9, ngày Bính tuất, Hoàng thái hậu se mình. Trước đây sao chổi xuất hiện, người hầu đem tâu, Hoàng thái hậu buồn rầu không vui, một đêm lẻn ra xem, rồi vào bảo người hầu rằng: “Sao chổi chính ứng điềm vào thân già này”. Đến nay se mình. Vua sớm chiều đến chầu ở cung Trường Thọ, sai hoàng tử hoàng tôn vào hầu. Các quan văn võ đều họp ở công thự bên hữu.

Ngày Kỷ sửu, tháng 09 âm lịch, tức ngày 30 tháng 10 năm 1811, Hoàng thái hậu băng, thọ 74 tuổi. Vua thương khóc không thôi. Triệu các quan vào bên để bàn việc tang. Các quan xin từ tam phẩm trở lên đều để tang một năm. Vua dụ rằng: “Nhà vua lấy Tôn Miếu Xã Tắc làm trọng. Nay trẫm đã để tang 3 năm, các ngươi lại để tang 1 năm, nếu trong một năm có việc ở Tôn Miếu Xã Tắc thì làm lễ thế nào? Vậy cho để tang 3 tháng”. Các quan lại ngờ về tang phục của công chúa để tang. Vua nói: “Thánh nhân đặt lễ phân biệt từng ly từng tý. Lòng kính không thể thích hợp cả đôi đường, tang phục không thể trọng cả hai bên. Cho nên một người con gái, khi ở nhà thì lấy nhà cha làm tôn, khi lấy chồng thì lấy nhà chồng làm trọng. Nghĩa đã có phân biệt, tang sao lại như nhau được. Vậy nghị cho hoàng nữ đã đi lấy chồng thì kém hoàng nữ còn ở nhà một bậc”. Bộ Lễ lại xin định hạn cấm việc giá thú. Vua nói: “Thần dân nên theo thứ tự mà tỉnh giảm để lấy vợ lấy chồng được kịp thời”. Thế là sự bàn đã định.

Ngày Đinh dậu, làm lễ thành phục (Vua để tang 3 năm; hoàng hậu tang 3 năm; phi tần, hoàng tử và công chúa chưa đi lấy chồng đều tang 1 năm; trưởng công chúa và công chúa đã đi lấy chồng tang 9 tháng. Người tôn thân ở năm bậc tang đều để tang theo như lễ; người thân ở bậc trần cánh tay và bỏ mũ thì dùng khăn vải trắng; quan văn võ từ chánh tam phẩm trở lên, tang mặc áo vén gấu 3 tháng, từ tòng tam phẩm trở xuống, ai dự vào việc tang thì dùng vải trắng; quan ngoài thì miễn áo tang, duy ai về Kinh thì mang áo tang cũng như quan Kinh; quan thuộc cung Trường Thọ thì chánh tam phẩm trở lên mặc áo vén gấu 5 tháng; mệnh phụ đều để tang như chồng; quan viên từ tam phẩm trở lên cấm cưới vợ gả chồng 3 tháng, tứ phẩm trở xuống thì 1 tháng, quân dân 15 ngày; cấm dùng màu hồng màu tía 1 năm; cấm hát xướng 3 tháng. Quan viên vào chầu hầu, trong 3 năm đều không được mặc áo màu đỏ màu tía; phàm gặp việc thờ cúng hay việc quân đều cho mặc áo thường mà làm việc; các thành dinh trấn trong 3 tháng, ngày mồng một và ngày rằm đều được miễn bái chầu).

Chiếu dụ trong ngoài rằng: “Giờ tuất ngày 14 tháng này, Hoàng thái hậu thăng hà, trẫm thương xót đau lòng, kính cẩn ở trong cung để tang ba năm, nhất thiết theo lễ chế. Phục chế và hạ cấm đối với quan viên trong ngoài và quân dân đều theo nghị định mà làm”. Trước kia vua thờ Hoàng thái hậu rất kính cẩn, khi muôn việc đã rồi thì xem bữa ăn, thăm sức khỏe, lễ thường không thiếu. Đến khi thái hậu băng, vua cư tang, lòng rất đau thương.

Tháng 3, ngày Mậu dần, năm 1812 vua đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn thụy Đại hành hoàng thái hậu là Ý Tĩnh Huệ Cung An Trinh Từ Hiến Hiếu Khang hoàng hậu(懿靜惠恭安貞慈獻孝康皇后) . Bài sách nói: “Thần nghe Kinh Dịch khen Đất gây nên vật, Kinh Thi khen Trời sinh ra dân. Nghĩ đức dày thể theo đức chí nguyên; nên tiếng tốt lưu truyền đời mãi mãi. Kính nhớ Đại hành hoàng thái hậu: nhân từ giữ được tính trời, rộng lớn sách cùng nết đất. Gian nan bền chí, giúp đỡ cha hiền. Từ khi vận nước gặp tai, giúp thần bao phen khó nhọc. Đem mình làm khuôn mẫu, chăm lo việc cơ mưu. Cho thần dựng lại nước nhà, thống nhất bờ cõi; ví không nhờ ơn dạy dỗ, sao được thế này? Phong hóa tốt đẹp, thơm khắp mọi phương. Tuổi thọ lâu dài, vượt ngoài bảy chục. Vội bỏ lộc thiên hạ phụng dưỡng, mà đi chơi dạo chốn đế hương. Ơn như trời cao, muốn trả không sao được; đức như đất chở, phải tiếp đến vô cùng. Kính cẩn đem bầy tôi, xin mệnh ở Tôn Miếu, phụng sách vàng dâng tôn thụy là ý Tĩnh Huệ Cung An Trinh Từ Hiến Hiếu Khang hoàng hậu. Cúi xin hồn thiêng sáng suốt, nhận lấy danh hay. Sánh hợp tổ tiên, muôn đời phối hưởng”.

Vua tôi bàn định lễ Ninh lăng. Sai Nguyễn Văn Thành, Phạm Văn Nhân,Nguyễn Huỳnh Đức sung chức Tổng hộ sứ, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm sung chức Phù liễn sứ, Nguyễn Đức Xuyên đề đốc quân và voi theo hầu hai bên tả hữu, Trần Công Lại và Trương Phước Đặng coi giữ Kinh thành.

Mùa hạ, tháng 04 ngày Quý sửu, năm Nhâm Thân âm lịch, tức ngày 21 tháng 05 năm 1812 an táng Lăng Thoại Thánh. Trước mười ngày là ngày Giáp thìn, đem việc kính cáo các miếu. Ngày Kỷ dậu, tế khải điện. Ngày Canh tuất, thuyền ra đi. Qua các tôn lăng đều sai quan đem việc kính cáo trước.

Nhân cách

Động viên con

Bà theo Gia Long lênh đênh chạy tìm cách xoay trở tình hình thế cuộc, là chỗ dựa tinh thần vững chắc của ông. Ngay khi ông đi thuyền đến đảo Côn Lôn, gặp gió lớn, trôi dạt ở ngoài biển 7 ngày, trong thuyền hết nước uống thì bỗng có nước nhạt chảy ra, nhờ thế mới đỡ. Khi thuyền đến đảo Phú Quốc, gặp lại mẹ, ông thuật lại tình trạng cay đắng của mình, bà nói: "Gió lớn ở đảo Côn Lôn, giữa biển có nước ngọt, có thể biết là lòng trời ngầm giúp cho con, con chớ nên lấy sự khó nhọc ấy mà tự nản chí". Gia Long nghe thế lạy tạ và động viên ông rất nhiều trong việc giành lại đất nước sau này.

Tình chị em thân thiết

Bà đối với chị mình là Từ phi rất yêu mến, từ khi còn ở Gia Định cho đến khi ở Phú Xuân, bà đều cùng ở chung với chị mình; Khi ở cung Trường Thọ, bà ở phần trước cung, còn Từ phi ở phía sau, muôn phần hòa thuận.

Khi Từ phi mất, Gia Long chưa vội tâu, bà biết được, giận không ăn cơm. Khi Gia Long thăm, bà nói: ...Thân già này có một người chị, lúc ốm không được thấy, vì thế ăn không ngon.... Gia Long bèn cúi quỳ ở trước thềm cung, xin lỗi thành khẩn, bà mới ăn cơm.

Di sản

Trong số 94 kim sách triều Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam thì kim sách tấn phong Quốc mẫu Vương Thái phi cho bà Nguyễn Thị Hoàn là có niên đại sớm nhất. Bà được tấn phong vào tháng 10, năm Cảnh Hưng thứ 57 (1796), có nghĩa là lúc đó Nguyễn Ánh chưa lên ngôi vua, và mới chỉ khôi phục được vùng Gia Định. Ngày 30/1/2023, Kim sách tấn phong Quốc mẫu Vương Thái Phi được xếp vào danh sách 27 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia. Theo hồ sơ thì kim sách này có hai tờ bạc mạ vàng, nặng 3,475 kg. Mặt trước và mặt sau của kim sách để trơn, bên trong khắc 254 chữ Hán.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Thị Hoàn**, tên hiệu **Ý Tĩnh Khang hoàng hậu** (chữ Hán: 懿靜康皇后, 1736 - 30 tháng 10 năm 1811), hay **Hiếu Khang hoàng hậu** (孝康皇后), là chính thất phu nhân của Nguyễn Phúc Luân,
**Nguyễn Quý phi** (chữ Hán: 阮貴妃), hay gọi **Hiến Tông Nguyễn hoàng hậu** (憲宗阮皇后), không rõ năm sinh năm mất, là một cung tần của Lê Hiến Tông Lê Tranh. Bà là sinh mẫu Lê
**Nguyễn Công Hoan** (6 tháng 3 năm 1903 – 6 tháng 6 năm 1977) là một nhà văn, nhà báo Việt Nam được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm
**Nguyễn Thị Ngọc Du** (chữ Hán: 阮氏玉琇; 1762 – 1820), phong hiệu **Phúc Lộc Công chúa** (福祿公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai** (Tên cũ: **Trường nữ Gia Long**, **Trường nữ sinh Áo Tím**; tên khác: **Miki**) là một trường trung học phổ thông công lập ở Thành phố
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
**Phaolô Nguyễn Thanh Hoan** (1932–2014) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam Ông từng đảm nhận nhiệm vụ giám mục tại Giáo phận Phan Thiết trong hai giai đoạn
**Nguyễn Thị Loan** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1990 tại xã Bạch Bằng (Hồng Bạch, huyện Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam) là một người mẫu, diễn viên, á hậu, người Việt Nam. Cô
**Thanh Khoa** (tên đầy đủ là **Nguyễn Thị Thanh Khoa,** sinh ngày 10 tháng 10 năm 1994) là một hoa hậu, người mẫu Việt Nam, từng đạt thành tích Hoa khôi HUTECH 2019 và đại
**Nguyễn Thị Năm** (1906 – 9 tháng 7 năm 1953, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội), là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống
**Nguyễn Thị Kim Ngân** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1954) là nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và là nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nguyên là Chủ tịch Quốc hội, nguyên
**Nguyễn Hoàng Ca** (15 tháng 5 năm 19289 tháng 5 năm 1968), thường được biết đến với bút danh **Nguyễn Thi**, là một nhà văn người Việt Nam nổi tiếng trong thời kì Chiến tranh
**Nguyễn Thị Hưng** (1920 - 1993, tên khai sinh là **Nguyễn Thị Ức**, bí danh hoạt động là **Tân**, **Đề**) là nhà cách mạng và là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều
**Nguyễn Thị Cận** (chữ Hán: 阮氏瑾; ? - 1488) là một phi tần của Lê Hiến Tông Lê Tranh, mẹ đẻ của Lê Uy Mục Lê Tuấn. Đương thời gọi bà là **Chiêu Nhân thái
**Nguyễn Thị Định** (15 tháng 3 năm 1920 – 26 tháng 8 năm 1992), còn được gọi là **Madame Nguyễn Thị Định**, **Ba Định** (bí danh **Bích Vân,** **Ba Tấn**, **Ba Nhất** và **Ba Hận**),
**Nguyễn Đức Hoan** (sinh 1938) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Quảng Trị. Tên thường gọi: Nguyễn Đức Hoan Ngày sinh: 1/1/1938, từ trần vào hồi 04h8
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Đình Hoàn** (1661-1744), hiệu **Chu Phù** là thủ khoa nho học Việt Nam, một nhà thơ, và là danh thần của nhà Lê trung hưng. ## Tiểu sử thumb|Mộ và Nhà bia Đình nguyên
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nguyễn Phúc Luân** (chữ Hán: 阮福㫻, 11 tháng 6 năm 1733 - 24 tháng 10 năm 1765) hay **Nguyễn Phúc Côn**, còn gọi là **Nguyễn Hưng Tổ** (阮興祖), là một Vương tử ở Đàng Trong,
**Nguyễn Thị Minh Ngọc** (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1953, tại Bà Rịa, Việt Nam), là nhà văn, nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Thị Minh Ngọc
**Nguyễn Thị Thành** (sinh ngày 6 tháng 4 năm 1996 tại Bắc Ninh) là một Á hậu và người mẫu tại Việt Nam. Cô đã tham gia và giành ngôi vị Á khôi 1 Hoa
**Nguyễn Thị Hồng Ngát** (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1950) là một nhà thơ, nhà biên kịch, nguyên giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam, Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh, thành viên của
** Nguyễn Tôn Hoàn** (1917-2001) là một chính khách Việt Nam, một trong những lãnh tụ của Đại Việt Quốc dân Đảng. Ông cũng từng giữ chức Bộ trưởng Thanh niên trong chính phủ Quốc
**Nguyễn Đình Hoàn** (? -1765), tên chữ là **Linh Thuyên**; là võ quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Đình Hoàn** là người làng Hương Duệ, huyện Kỳ
**Nguyễn Thị Nhung** (sinh năm 1936) là một phó giáo sư, tiến sĩ, nữ nhạc sĩ Việt Nam. Là nữ nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên tham gia sáng tác nhạc giao hưởng, Nguyễn Thị
:''Về vợ của vua Chiêu Thống đời Hậu Lê, xem Nguyễn Thị Kim (hoàng phi) **Nguyễn Thị Kim** ( – ) là nhà điêu khắc và họa sĩ Việt Nam. Bà là nhà điêu khắc
**Nguyễn Thị Thủy** (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1977) là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XV, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Bắc Kạn, là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư
Trj Dứt Điểm, Lác Nguyễn Thi - Dứt điểm không tái phát Trj hắc lào trong 5 ngàyĐừng chủ quan về bệnh hắc lào, lác đồng tiền 90 % bệnh nhân hắc lào chủ quan
Trj Dứt Điểm, Lác Nguyễn Thi - Dứt điểm không tái phát Trj hắc lào trong 5 ngàyĐừng chủ quan về bệnh hắc lào, lác đồng tiền 90 % bệnh nhân hắc lào chủ quan
**Dư Thị Hoàn** (tên thật **Vương Oanh Nhi**, sinh năm 1947 tại Hải Phòng) là một nhà thơ Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thi đàn cuối thập niên 80 với tập thơ đầu tay
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
Giáo sư Bác sĩ **Nguyễn Thị Ngọc Phượng** (sinh năm 1944) là một nhà y khoa nổi tiếng người Việt Nam; hiện là Phó Chủ tịch Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam,
**Nguyễn Thị Mơ** (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949) là nhà giáo dục, luật gia người Việt Nam. Bà có học hàm, học vị là Giáo sư, Tiến sĩ ngành Luật, danh hiệu Nhà
**Nguyễn Thị Sen** (? - ?) là tứ phi Hoàng hậu nhà Đinh, vợ của vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam, Bà được hậu thế tôn vinh là bà tổ nghề may.
**Từ phi Nguyễn thị** (chữ Hán: 慈妃阮氏; ? – 1807), không rõ tên húy, là phi tần của công tử Nguyễn Phúc Luân, con trai chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Thị Thu Nhi** (biệt danh: **_Thiên Thần Đen_** (**_Black Angel_**); sinh ngày 22 tháng 10 năm 1996), là nữ võ sĩ Quyền Anh chuyên nghiệp người Việt Nam gốc Khmer. Cô hiện là đương
**Nguyễn Thị Thanh Nhàn** (sinh năm 1969) là một nữ doanh nhân người Việt. Bà là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC).
**Chế Thắng phu nhân** (chữ Hán: 制胜夫人), còn gọi **Bà Bích Châu** (婆碧珠) hay **Cung phi Bích Châu** (宮妃碧珠), là một nhân vật truyền thuyết Việt Nam, tương truyền là một phi tần rất được
**Nguyễn Thị Ngọc Hải** (31 tháng 1 năm 1944) là một nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Bà nguyên là Chuyên viên Báo chí của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Tây Sơn Ký Số tài liệu lưu trữ trong Thư viện của Đại học Yale có một cuốn sách chép tay nhan đề Nguyễn thị Tây Sơn ký, nội dung về đời Tây
**Nguyễn Thị Ngọc Diễm** (chữ Hán: 阮氏玉琰, 1721-1784), là thứ phi của chúa Trịnh Doanh, mẹ Trịnh Sâm, bà nội của Trịnh Khải và Trịnh Cán. ## Tiểu sử ### Thân thế Bà có tên
**Nguyễn Thị Nhỏ** (1909 - 1946) là một nhà cách mạng chống Pháp. Bà là người cầm cờ đỏ búa liềm đầu đoàn biểu tình chống đàn áp và sưu cao thuế nặng tại Đức
**Vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn** là một vụ án oan trong lịch sử tố tụng của Việt Nam mà ông Nguyễn Thanh Chấn (sinh năm 1961 tại Bắc Giang) đã bị kết án chung
**Nguyễn Khắc Thị Bảo** (còn đọc trại là **Bửu**) (chữ Hán: 阮克氏寶; 7 tháng 9 năm 1801 – 12 tháng 9 năm 1851), phong hiệu **Tứ giai Thục tần** (四階淑嬪), là một cung tần của
**Nguyễn Thị Phú Hà** (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1972) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và
**Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền** (chữ Hán: 阮福玉璿; 1764 – 1782), phong hiệu **Minh Nghĩa Công chúa** (明義公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Ngọc Tú** (chữ Hán: 阮福玉琇; 1759 – 1823), phong hiệu **Long Thành Công chúa** (隆城公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Quang** (chữ Hán: 阮福㫕, 10 tháng 9 năm 1811 – 29 tháng 6 năm 1845), tước phong **An Khánh vương** (安慶王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch