✨Nguyễn Thị Nhung (nhạc sĩ)

Nguyễn Thị Nhung (nhạc sĩ)

Nguyễn Thị Nhung (sinh năm 1936) là một phó giáo sư, tiến sĩ, nữ nhạc sĩ Việt Nam. Là nữ nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên tham gia sáng tác nhạc giao hưởng, Nguyễn Thị Nhung là một trong những người phụ nữ tiên phong trong lĩnh vực sáng tác, khí nhạc, âm nhạc giao hưởng thính phòng và ca khúc cho âm nhạc Việt Nam thời kỳ mới. Ngoài lĩnh vực sáng tác, bà còn là một nhà lý luận âm nhạc với nhiều công trình nghiên cứu về âm nhạc cổ truyền và âm nhạc mới của Việt Nam. Bà cũng là một nhà sư phạm có ảnh hưởng khi đào tạo nhiều thế hệ học sinh âm nhạc trên toàn Việt Nam.

Nguyễn Thị Nhung sinh trưởng trong gia đình tri thức và sớm được tiếp xúc với âm nhạc. Với năng khiếu âm nhạc vốn có của mình, bà đã được tập chơi nhiều nhạc cụ và tham gia nhiều đội văn nghệ nhi đồng với các tiết mục biểu diễn múa hát và chơi đàn. Nguyễn Thị Nhung bắt đầu được đào tạo âm nhạc bài bản và chuyên sâu từ những năm bà được cử đi học tại Trung Quốc. Bà bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 20 tuổi. Sau khi học hết trung cấp violin, bà tiếp tục học chuyên ngành sáng tác bậc đại học và được cử sang tu nghiệp tại Bulgaria. Trở về nước sáng tác với học vị phó tiến sĩ, Nguyễn Thị Nhung tiếp tục tham gia công tác nghiên cứu và giảng dạy cho Nhạc viện Hà Nội với nhiều công trình nghiên cứu về âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Bà đã viết nhiều tác phẩm khí nhạc, thơ giao hưởng, tiểu phẩm cũng như ca khúc trong cả thời kỳ sự nghiệp phát triển, đến khi đã nghỉ hưu nhưng bà vẫn tiếp tục viết sách, biên soạn giáo án cũng như giảng dạy tại các trường và cơ sở âm nhạc trên toàn Việt Nam.

Các sáng tác của Nguyễn Thị Nhung được nhìn nhận là có sự hiện diện trong tính cách cũng như vốn sống của người phụ nữ Việt Nam. Bà được nhà nước Việt Nam phong tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I, huân chương Lao động hạng ba cùng nhiều giải thưởng khác.

Thân thế

Nguyễn Thị Nhung sinh ngày 16 tháng 8 năm 1936 tại Hà Nội trong một gia đình công chức. Bà là con út trong một gia đình có 9 người con. Các anh trai của bà đều được tiếp xúc với âm nhạc từ bé và được chơi guitar, banjo, flute... Họ tham gia đoàn kịch Sao Vàng do nhạc sĩ Đỗ Nhuận và Nguyễn Đức Toàn phụ trách. Các anh trai bà vốn học ở trường Đỗ Hữu Vị.

Sự nghiệp

Bố bà qua đời sớm nên mẹ bà phải gánh vác mọi việc. Với năng khiếu âm nhạc, bà làm người chơi đàn mandolin trong Đội Nhi đồng Mai Hắc Đế lúc 9 tuổi. Năm 1946, khi chiến tranh Đông Dương xảy ra, bà cùng gia đình chuyển lên chiến khu Việt Bắc. Năm 1950, bà tham gia đội văn nghệ học sinh sư phạm Khu Học xá Trung Ương với nhiệm vụ là múa, hát và chơi violin. Cuộc đời của Nguyễn Thị Nhung bắt đầu có ngã rẽ khi bà được cơ quan Cục Tiếp tế vận tải (Bộ Tài chính) cử đi học tại Trường Sư phạm Trung ương - Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc vào năm 1951. Tại nơi đây, bà đã được học chuyên sâu về sư phạm và âm nhạc. Cuối năm 1954, bà cùng đoàn học sinh sư phạm Khu Học xá Trung Ương tham gia Liên hoan Văn công toàn quốc tại Hà Nội. Một năm sau, Nguyễn Thị Nhung nhận công tác giảng dạy âm nhạc tại Trường cấp II Trưng Vương, Hà Nội. Trong khoảng thời gian này, bà tham gia học một lớp bổ túc âm nhạc kéo dài 8 tháng do các nhạc sĩ thành lập và huấn luyện. Những lớp học này là tiền thân của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.

Trong khoảng thời gian học lớp bổ túc âm nhạc, Nguyễn Thị Nhung đã sáng tác một số ca khúc cho thanh niên, học sinh như "Ngày vui sướng của em", "Thay trời làm mưa", "Con đường tươi đẹp", "Trời sáng lên rồi", trong đó ca khúc "Thay trời làm mưa" viết năm 1956 đã được giải thưởng của cuộc thi sáng tác âm nhạc nghiệp dư của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1959, bà học trung cấp violin tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Sau khi tổt nghiệp trung cấp, bà được giữ lại làm giảng viên dạy sơ cấp của trường. Với niềm đam mê sáng tác, năm 1965, bà thi Đại học chuyên ngành sáng tác dưới sự dẫn dắt của nhạc sĩ Chu Minh.

Thời kỳ học Đại học chuyên ngành sáng tác Âm nhạc được xem là thời kỳ khó khăn của bà. Khi chiến tranh xảy ra ác liệt ở miền Bắc Việt Nam, bà đã đi sơ tán một mình cùng con nhỏ. Tuy vậy, bà đã hoàn thành chương trình học tập với nhiều tác phẩm, tiểu phẩm viết cho đàn piano và các ca khúc. Bà tiếp tục tham gia giảng dạy tại khoa sáng tác trước khi được cử đi tu nghiệp ở Nhạc viện Sofia (Bulgaria) vào năm 1969. Trong khoảng thời gian ở nước ngoài, Nguyễn Thị Nhung được học tập các giáo sư, qua đó bà đã tiếp thu được nhiều kiến thức trong lĩnh vực sáng tác và được nâng cao trình độ ở môn kiến thức âm nhạc, đặc biệt là phân tích tác phẩm. Năm 1972, bà trở về Việt Nam tiếp tục tham gia công tác giảng dạy. Vừa giảng dạy, bà vừa thực hiện nghiên cứu các vấn đề trong âm nhạc dân gian Việt Nam để chuẩn bị luận án. Vì vậy, các tác phẩm được bà viết trong giai đoạn này thường có cấu trúc không lớn. Cùng năm, bà sáng tác "Nữ anh hùng miền Nam", là tác phẩm thơ giao hưởng đầu tiên của bà.

Năm 1981, Nguyễn Thị Nhung bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ chuyên ngành lý luận tại Nhạc viện Sofia với đề tài "Các dạng cấu trúc đoạn nhạc trong dân ca người Việt". Sau khi về nước, bà đã biên tập nhiều tài liệu và giáo trình giảng dạy âm nhạc từ trình độ sơ cấp đến trung cấp và đại học. Các giáo trình này đã được sử dụng trong chương trình giảng dạy ở Nhạc viện Hà Nội cũng như các cơ sở đào tạo âm nhạc khắp Việt Nam. Trong thời kỳ này, bà đã sáng tác thơ giao hưởng "Khát vọng" năm 1986 cùng một số ca khúc cho thiếu nhi. Năm 1988, nữ nhạc sĩ được Bộ giáo dục và Đào tạo Việt Nam mời làm Chủ tịch Hội đồng Giáo dục Âm nhạc để cùng các nhạc sĩ, cán bộ biên soạn chương trình và sách giáo khoa âm nhạc cho học sinh phổ thông và học sinh sư phạm trên toàn quốc.

Ngoài công tác giảng dạy và nghiên cứu, bà còn làm công tác quản lý. Nguyễn Thị Nhung làm chủ nghiệm khoa Sáng tác - Lý luận - Chỉ huy tại nhạc viện Hà Nội từ năm 1981 đến 1984. Từ năm 1984 đến 1991, bà làm phó giám đốc Nhạc viện này. Năm 1991, Nguyễn Thị Nhung được nhà nước Việt Nam phong tặng hàm Phó giáo sư. Trong giai đoạn này, bà đã sáng tác một số ca khúc và tiểu phẩm có được sự thành công nhất định như "Ballade Huyền thoại mẹ" viết năm 1995 hay "Romance cho violin và piano" viết năm 1999. Nhiều ca khúc do nữ nhạc sĩ sáng tác thời kỳ này cũng được xuất bản, thu thanh và phát trên truyền hình. Năm 1994, Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã xuất bản "Tuyển chọn ca khúc Nguyễn Thị Nhung" gồm 12 tác phẩm tiêu biểu của bà đi cùng băng cát-sét. Bà còn viết phần nhạc cho phim hoạt hình "Chú gấu tham lam" và đoạt giải Nhất của một giải thưởng về hạng mục viết nhạc phim.

Bên cạnh các tác phẩm âm nhạc, Nguyễn Thị Nhung còn hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu âm nhạc. Sau công trình để bảo vệ luận án Phó tiến sĩ, bà còn có các công trình khác như "Nhạc khí gõ và trống để trong Chèo truyền thống" viết cho Bộ Văn hóa - thông tin. Trong công trình này, bà đã đưa ra các nguyên tắc phối hợp các nhạc khí gõ trong các tình huống khác nhau, đặc biệt là phần giới thiệu kỹ thuật và khả năng diễn tả của trống đế trong nhạc Chèo. Công trình đã được xuất bản năm 1998 và được giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam cùng năm. Năm 2000, Nguyễn Thị Nhung tham gia nhóm tác giả gồm 5 người biên soạn cuốn sách "Âm nhạc Việt Nam - tiến trình và thành tựu", là cuốn sách quan trọng, công trình khoa học lớn đầu tiên tổng kết, đánh giá toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của nền âm nhạc Việt Nam trong cả thế kỷ 20. Năm 2001, bà viết một cuốn sách độc lập có tên "Âm nhạc thính phòng - giao hưởng Việt Nam - sự hình thành và phát triển - tác phẩm và tác giả". Trong cuốn sách này, bà khái quát lịch sử hình thành và phát triển khí nhạc Việt Nam, cũng như phân tích lại các tác phẩm cụ thể từ tác phẩm nhỏ tới liên khúc giao hưởng.

Bà nghỉ hưu năm 1993 nhưng vẫn tiếp tục viết nhiều giáo trình và sách giáo khoa cho Nhạc viện Hà Nội cũng như tham gia công tác giảng dạy tại đây. Năm 2006, Nguyễn Thị Nhung còn tham gia nhóm tác giả 11 nhạc sĩ của công trình "Âm nhạc Việt Nam - tác giả - tác phẩm" và đảm nhận biên soạn tập I.

Đời tư

Năm 1958, Nguyễn Thị Nhung kết hôn với nhạc sĩ Huy Du. Sau đó, bà đi tu nghiệp ở Bulgaria, đến năm 1963 mới sinh con gái đầu lòng. Huy Du lại tham gia chiến trường nên hơn 10 năm sau, hai ông bà mới sinh thêm con trai. Con gái của bà là Nguyễn Thị Huyền Cầm, một giảng viên piano ở Đức. Con trai của bà là Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Huy Phương, hiện là giảng viên khoa piano và là phó giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Bà đã cùng Huy Du cộng tác để viết nhạc cho một số bộ phim như "Quảng Trị", "Trường phổ thông công nghiệp", "Đại thắng mùa xuân năm 1975"...

Thành tựu

Bà đã nhận được một số giải thưởng và huân chương do Nhà nước Việt Nam phong tặng như Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Huy hiệu Chiến sĩ văn hóa, cùng nhiều huy chương và giải thưởng khác.

Đánh giá

Nguyễn Thị Nhung được xem là nữ nhạc sĩ Việt Nam tiên phong trong việc sáng tác nhạc giao hưởng. Mọi tác phẩm của bà nhìn chung là có bóng dáng và sự hiện diện trong tính cách cũng như vốn sống của người phụ nữ Việt Nam. Đây cũng là lý do mà những tác phẩm của bà để lại dấu ấn trong lòng người nghe. Bà cũng là người phụ nữ duy nhất được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt I (năm 2001).

Nguyễn Thị Nhung là một trong những người phụ nữ tiên phong trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc giao hưởng, khí nhạc và ca khúc cho nền âm nhạc mới Việt Nam. Ngoài lĩnh vực sáng tác, bà còn là một nhà lý luận âm nhạc với nhiều công trình nghiên cứu về âm nhạc cổ truyền và âm nhạc mới của Việt Nam. Bà cũng là một nhà sư phạm có ảnh hưởng khi đào tạo nhiều thế hệ học sinh âm nhạc trên toàn Việt Nam đồng thời biên soạn nhiều sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy trong các nhạc viện và cơ sở đào tạo âm nhạc.

Đánh giá chuyên môn

Sáng tác tác phẩm thính phòng

Nguyễn Thị Nhung có nhiều tác phẩm thính phòng ở các hình thức khác nhau, bao gồm cả hình thức hai đoạn, ba đoạn, biến tấu và sonata. Bà sáng tác các tác phẩm thính phòng chủ yếu cho violin và piano. Những tác phẩm khí nhạc đầu tiên của bà là 3 tiểu phẩm đàn piano "Vũ khúc", "Vui chơi" và "Niềm vui của em". Năm 1966, nữ nhạc sĩ nhận tin nhiều trẻ nhỏ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) bị trúng bom và nhiều học sinh thiệt mạng ngay trên lớp học, bà đã sáng tác một prelude cho piano với tiêu đề "Đau thương và phẫn nộ". Tác phẩm được nhận xét là "bi thương, tang tóc", diễn tả tâm trạng xót thương trước cái chết của những đứa trẻ.

Năm 1968, sự kiện tết Mậu Thân của Quân giải phóng miền Nam khiến bà sáng tác bản biến tấu "Quê mẹ" cho piano. Tác phẩm được Tuyết Minh biểu diễn lần đầu trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Chủ đề của bản biển tấu mang âm hưởng dân ca Nam Bộ, có trữ tình và "buồn man mác". Cùng năm, bà sáng tác "Những cô gái phương Nam", một sonata cho violin và piano. Bản sonata được mở đầu bằng một đoạn nhạc của violin mang tính thể hiện kỹ thuật, âm nhạc ở phần này cũng được đánh giá là đậm chất dân ca.

Năm 1970, trong thời gian học tập ở nước ngoài, bà sáng tác một bản sonata cho piano có cấu trúc 3 chương ở giọng Rê trưởng với tiêu đề "Mùa xuân". Đây là tác phẩm duy nhất bà viết dưới dạng liên khúc sonata. Là một người yêu thích và được đào tạo bài bản violin, Nguyễn Thị Nhung đã dành nhiều ưu ái cho cây đàn này bằng nhiều tác phẩm. Nổi bật là serenade "Chiều quê hương" viết năm 1977 và "Romance cho violin và piano" viết năm 1998. Đây là những tác phẩm thính phòng mang tính trữ tình, "đầy nữ tính" với cấu trúc ngắn gọn. Tác phẩm thính phòng có cấu trúc lớn nhất mà bà viết là "Ballade Huyền thoại mẹ", sáng tác cho violin, piano và kèn pha-gốt dưới dạng sonata. Bà viết tác phẩm nhân kỷ niệm 40 năm thành lập nhà nước Việt Nam. Hình tượng người mẹ tượng trưng cho Tổ quốc được thể hiện là "trữ tình, sang trọng".

Sáng tác tác phẩm giao hưởng

Nguyễn Thị Nhung sáng tác bản thơ giao hưởng đầu tiên vào năm 1972 mang tên "Nữ anh hùng", tác phẩm này của bà được lấy cảm hứng từ truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thi. Bà đã dùng âm hưởng của các điệu lý trong âm nhạc Nam Bộ. "Nữ anh hùng" được viết ở dạng sonata và cung Sol thứ. Năm 1986, Việt Nam đang trong thời kỳ khủng hoảng và khó khăn, bà đã sáng tác thơ giao hưởng "Khát vọng". Tác phẩm được cho là nói lên niềm khát khao về một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Tác phẩm không có phần mở đầu mà đi vào chủ đề chính, được sử dụng nhiều thủ pháp phát triển âm nhạc với sự đan xen điệu tính, khiến cho âm nhạc trở nên "giản dị nhưng vẫn phong phú về màu sắc".

Sáng tác ca khúc

Sáng tác ca khúc không phải thế mạnh của Nguyễn Thị Nhung, tuy nhiên bà vẫn có đóng góp đáng kể ở lĩnh vực này. Bà đã tập làm quen với công việc sáng tác ca khúc từ những ngày đầu tham gia các lớp bổ túc âm nhạc ngắn hạn. Các ca khúc trong thời gian này thường thể hiện đề tài tình cảm đối với Đảng cộng Sản Việt Nam, với cuộc sống mới vừa hồi sinh sau chiến tranh, nhưng nhiều hơn cả là các ca khúc về tình yêu. Tuy vậy, các ca khúc tình yêu đôi lứa của bà thường gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước.

Từ năm 1967, sau khi tốt nghiệp Đại học chuyên ngành sáng tác, bà đã sáng tác khí nhạc nhưng vẫn có nhiều ca khúc thành công. Vẫn là chủ đề tình yêu nhưng các ca khúc ở thời gian này đã thay đổi ca từ và hình tượng âm nhạc. Tới thập niên 1990, khi không còn vướng bận công tác chính quyền, Nguyễn Thị Nhung sáng tác ca khúc mang đậm tính trữ tình hơn. Là một nữ nhạc sĩ, đề tài trong các ca khúc của bà thường diễn tả hình tượng, diễn biến nội tâm của một người phụ nữ, cụ thể hơn là phụ nữ Việt Nam. Bà thường viết ca khúc ở hình thức 2 đoạn đơn với 2 dạng khác nhau.

Tác phẩm

Nguyễn Thị Nhung đã sáng tác các tác phẩm sau:

Tác phẩm thính phòng và giao hưởng

  • "Vũ khúc", "Vui chơi", "Niềm vui của em" (Chùm 3 tiểu phẩm piano)
  • "Đau thương và phẫn nộ" (Prelude cho piano)
  • "Quê mẹ" (Chủ đề và biến tấu cho piano)
  • "Những cô gái phương Nam" (Sonata cho violin và piano)
  • "Khúc hát ngày mùa" (đàn tam thập lục)
  • "Khúc hát sớm mai" (tổ khúc giao hưởng)
  • "Chiều quê hưong" (Serenade cho violin và piano)
  • "Ballade Huyền thoại Mẹ"
  • "Romance cho violin và piano"

Ca khúc

  • "Ngày vui sướng của em"
  • "Thay trời làm mưa"
  • "Con đường tươi đẹp"
  • "Trời sáng lên rồi"
  • "Tiến bước theo Đảng"
  • "Chiếc áo xanh" (thơ Tố Hữu)
  • "Hoa sữa trắng" (thơ Xuân Miễn)
  • "Theo bước anh Giải phóng quân"
  • "Mái tóc quê hương (phỏng thơ Trần Công Tùng)
  • "Đêm Giáng sinh" (thơ Nguyễn Thị Sâm)
  • "Em yêu mùa hè"
  • "Bạn bè"
  • "Hương hoa mùa thu"
  • "Bâng khuâng"
  • "Trở về trường xưa"
  • "Tình yêu"
  • "Kỷ niệm"
  • "Trên đỉnh Trường Sơn ta hát"
  • "Bài ca đường 9"
  • "Nổi lửa lên em"
  • "Tình em"
  • "Việt nam ơi! Mùa Xuân đến rồi"

Sách đã xuất bản

Một số sách do Nguyễn Thị Nhung xuất bản:

  • "Lịch sử âm nhạc thế giới nửa đầu thế kỷ XIX" (1985)
  • "Trích giảng âm nhạc nửa đầu thế kỷ XIX" (1987)
  • "Giảng nhạc" (1988)
  • "Hình thức âm nhạc" (1991), sách cho Cao đẳng xuất bản năm 1997
  • "Thể loại âm nhạc" (1996)
  • "Phân tích tác phẩm âm nhạc" (1999)
  • "Âm nhạc thưởng thức" (2000)
  • "Âm nhạc Việt Nam - tiến trình và thành tựu" (đồng tác giả, 2000)
  • "Phân tích tác phẩm" (2001)
  • "Âm nhạc thính phòng - giao hưởng Việt Nam - sự hình thành và phát triển - tác phẩm và tác giả" (2001)
  • "Âm nhạc Việt Nam - tác giả - tác phẩm" (5 tập, viết tập 1)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Thị Nhung** (sinh năm 1936) là một phó giáo sư, tiến sĩ, nữ nhạc sĩ Việt Nam. Là nữ nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên tham gia sáng tác nhạc giao hưởng, Nguyễn Thị
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Nguyễn Văn Chung** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983) là một nhạc sĩ người Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Văn Chung sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983 tại Thành
**Nguyễn Hải Phong** (sinh ngày 23 tháng 5 năm 1982) là một nam nhạc sĩ, ca sĩ, nhà soạn nhạc kiêm nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Anh từng giành được hai đề
**Nguyễn Ngọc Thiện** sinh năm 1951 tại thành phố Hồ Chí Minh, là bác sĩ, nhạc sĩ Việt Nam, được phong danh hiệu Thầy thuốc ưu tú năm 2004 và được tặng Giải thưởng Nhà
**Nguyễn Hữu Trí** (1917-1979) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là tác giả của bài hát nổi tiếng "Tiểu đoàn ba lẻ bảy" viết về Tiểu đoàn 307 thời chống Pháp. ## Cuộc đời
**Nguyễn Văn Khánh** (1922 - 20 tháng 8, 1976) là một nhạc sĩ tiền chiến người Việt Nam. ## Cuộc đời **Nguyễn Văn Khánh**, sinh năm 1922 tại Hà Nội, là một nhạc sĩ nổi
**Lê Chí Trực** (28 tháng 2 năm 1928 – 31 tháng 12 năm 1967), hay còn được biết đến rộng rãi với bút danh **Hoàng Việt**, là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là
nhỏ|Bộ đôi nhạc sĩ sáng tác bài hát [[Rodgers và Hart đang sáng tác ca khúc vào năm 1936]] **Nhạc sĩ sáng tác bài hát** (hay còn gọi là **nhạc sĩ sáng tác ca khúc**,
**Hoài Linh** (1920 – 1995) tên thật **Lê Văn Linh** là một nhạc sĩ nhạc vàng nổi tiếng. Trước 1975, ông hoạt động trong đoàn văn nghệ **Vì Dân** (thuộc Nha Cảnh sát Quốc gia)
**Trần Thanh Phương** (hay **Thanh Phương**, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1969) là một nam nhạc công, kĩ sư âm thanh, giám đốc âm nhạc, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người
**Vĩnh Cát** (sinh năm 1934) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là một trong những nhạc sĩ Việt Nam đạt được thành tựu nhất định trên cả 2 lĩnh vực sáng tác khí
**Nguyên Thảo** (sinh năm 1940) là một nhạc sĩ nhạc vàng trước năm 1975. Ngoài ra, ông còn là chủ nhà xuất bản Nguyên Thảo trước năm 1975. ## Cuộc đời Nhạc sĩ Nguyên Thảo,
**Trần Trọng Ngọc** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1933), thường được biết đến với nghệ danh **Tuấn Khanh**, là một nam nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Việt Nam. ## Tiểu sử Năm 1950,
**Thanh Sơn** (1 tháng 5 năm 1940 – 4 tháng 4 năm 2012) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông được biết đến từ thập niên 1960 với những ca khúc trữ tình nói về
**Trần Mạnh Hùng** (sinh năm 1973) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là một trong những nhạc sĩ đáng chú ý tại Việt Nam trong chuyển soạn, phối khí nhạc giao hưởng. Trần
nhỏ|Nhạc Sĩ Thái Thịnh **Trần Quang Vinh** (hay còn được biết đến với nghệ danh **Thái Thịnh**; sinh ngày 1 tháng 7 năm 1966 tại Biên Hòa), là một nhạc sĩ Việt Nam, nổi tiếng
**Ngân Giang** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Vỹ**, 1946 – 2009) là một nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam, hoạt động nghệ thuật tại Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông còn có

, là một nhạc sĩ, nghệ sĩ Visual Kei/J-Rock Nhật Bản nổi tiếng. Thường được gọi bởi nghệ danh **hide** (phát âm theo tiếng Nhật , viết hoa toàn bộ khi hoạt động trong

**Ngọc Bích** (tên đầy đủ: **Nguyễn Ngọc Bích**, 1924 - 2001) là một nhạc sĩ tiền chiến Việt Nam, được biết đến nhiều qua các ca khúc như "Đôi chim giang hồ", "Trở về bến
**Xuân Lôi** (17 tháng 10 năm 1917 - 29 tháng 8 năm 2006) là một nhạc sĩ Việt Nam có khả năng chơi 27 loại nhạc cụ. Ông là anh trai của nhạc sĩ Xuân
**Nguyễn An** (1930 – 2011) là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Ca khúc _Em có nghe âm thanh ngày mới_ là tác phẩm
**Nguyễn Thanh Tùng** (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1979 ) là một nhạc sĩ, nghệ sĩ đàn bầu Việt Nam. Anh nổi tiếng với tiếng đàn truyền cảm và nhiều sáng tác cho các
**Minh Châu** (tên thật **Trần Minh Châu**), sinh ngày 15 tháng 8 năm 1960 tại Đà Nẵng và lớn lên tại Sài Gòn, là một nhạc sĩ người Việt Nam, hội viên Hội Nhạc sĩ
**Ngọc Sơn** (tên đầy đủ: **Thái Ngọc Sơn**, sinh năm 1934) là một nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam trước năm 1975 tại Sài Gòn. Ông còn có bút danh là **Lệ Uyên**, **Tú
**Hoàng Thi Thơ** (16 tháng 7 năm 1928 - 23 tháng 9 năm 2001) là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Một số nghệ danh khác của ông
thế=Logo for NME. The capitals letters N, M and E are spelled out close together in a large, red font. **Danh sách nhạc sĩ ngầu nhất của _NME**_ (tiếng Anh: _**NME_'s Cool List**) là một
**Nguyễn Xuân Phương** (25 tháng 12 năm 1973 – 29 tháng 11 năm 2023), là nhạc sĩ kiêm giảng viên âm nhạc người Việt Nam. Anh nổi tiếng với một số ca khúc cho giới
là một nhạc sĩ, người viết ca khúc, và nhà sản xuất âm nhạc nổi tiếng của Nhật Bản. Anh là được biết đến như một trong những thành viên nổi tiếng nhất đồng sáng
**Ngọc Châu** (tên đầy đủ là **Phạm Ngọc Châu**, 16 tháng 9 năm 1967 – 17 tháng 3 năm 2022) là nhạc sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Việt Nam. Anh là con
**Ngọc Khuê** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1947), là một nhạc sĩ người Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với ca khúc "Mùa xuân làng lúa làng hoa". Ngoài ra, ông cũng
**Hoài Nam** (sinh 1942) là một nhạc sĩ nhạc vàng trước năm 1975. Ông là tác giả một số ca khúc như "Ba tháng quân trường", "Chín tháng quân trường", "Tình bạn Quang Trung". ##
**Lâm Tuyền** (1922 – 1997) là một nhạc sĩ nhạc tiền chiến và tình khúc 1954-1975 trước năm 1975. ## Cuộc đời Không rõ tên thật của ông, nhưng ông sinh năm 1922 tại Huế,
**Nguyễn Đức Tiến** (1936 - 1988), là một nhạc sĩ Việt Nam, nổi tiếng qua ca khúc _Làng tôi_. ## Cuộc đời **Nguyễn Đức Tiến**, có bút danh là **Chung Quân**, sinh ngày 6 tháng
**Thăng Long** (1 tháng 8 năm 1936 – 29 tháng 3 năm 2008) là một nhạc sĩ nhạc vàng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông được biết đến nhiều qua hai sáng tác _Quen
**Hồng Vân** (tên thật **Trần Công Quý**, sinh năm 1938) là một nhạc sĩ nhạc vàng Việt Nam. Ông là tác giả ca khúc nổi tiếng “Đồi thông hai mộ” và nhiều bài hát khác
**Diên An** (sinh năm 1934) là một nhạc sĩ, nhà quay phim và đạo diễn tại miền Nam Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 với một loạt tác phẩm chủ đề _"Người
**Đào Duy Anh**, tên tiếng Anh là **David Dao** (sinh 1948) là một ca sĩ, nhạc sĩ, bác sĩ người Mỹ gốc Việt. Ông sáng tác nhiều bài hát dựa trên nền tảng âm nhạc
**Hoài An** hay **Võ Hoài An**, **Hoài An (Võ)** (tên đầy đủ **Võ Đại Hoài An**, sinh ngày 16 tháng 1 năm 1977) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Anh có nhiều ca khúc
**Tuấn Khanh** (tên thật **Nguyễn Tuấn Khanh**; sinh ngày 1 tháng 10 năm 1968), là một nhạc sĩ Việt Nam. Anh làm việc về báo chí, âm nhạc và kiêm quản lý dự án. Tên
**Trường Sa** (sinh 1940) là cựu Thiếu tá Hải quân Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là một nhạc sĩ với nhiều bài tình ca nổi tiếng. ## Tiểu sử Ông tên thật là **Nguyễn
**Văn An** (1929–2011) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là một trong những người được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên. ## Thân thế và sự
**Phan Văn Minh** sinh năm 1954 tại Quảng Nam, là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2022. "Cả nhà thương nhau" là ca khúc nổi
**Nhạc tiền chiến** là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai
**Nguyễn Đình Phúc** (20 tháng 8 năm 1919 – 28 tháng 5 năm 2001) là một nhạc sĩ, họa sĩ và nhà thơ Việt Nam. Nguyễn Đình Phúc là nhạc sĩ thuộc thế hệ đầu
**Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai** (Tên cũ: **Trường nữ Gia Long**, **Trường nữ sinh Áo Tím**; tên khác: **Miki**) là một trường trung học phổ thông công lập ở Thành phố
**Lê Mộng Nguyên** (5 tháng 5 năm 1930 – 19 tháng 5 năm 2023) là tác giả ca khúc nổi tiếng Trăng mờ bên suối. Ông còn là giáo sư, tiến sĩ Luật và Khoa
**Nguyễn Văn Tý** (5 tháng 3 năm 1924 - 26 tháng 12 năm 2019) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như _Dư âm_ đến
**Trần Quyết Lập** (12 tháng 12 năm 1974 – 17 tháng 3 năm 2016), thường được biết đến với nghệ danh **Trần Lập**, là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Việt Nam. Là trưởng
**Nguyễn Thiện Nhân** (sinh ngày 6 tháng 10 năm 2002) là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô nổi danh sau khi đoạt giải quán quân của mùa thứ hai trong chương trình _Giọng