✨Hoàng Việt (nhạc sĩ)
Lê Chí Trực (28 tháng 2 năm 1928 – 31 tháng 12 năm 1967), hay còn được biết đến rộng rãi với bút danh Hoàng Việt, là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là một trong những nhạc sĩ đáng chú ý trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng được sáng tác như "Tình ca", "Nhạc rừng", "Lên ngàn", "Lá xanh", "Quê hương".
Nhạc phẩm "Tình ca" do ông sáng tác năm 1957 đã ra đời trong những năm đầu Việt Nam bị chia cắt, là một trong ca khúc nổi tiếng nhất của ông, mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước trong lịch sử âm nhạc Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, "Tình ca" đã được ca sĩ Quốc Hương thu thanh và phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và gây được sự chú ý của thính giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, ca khúc đã bị một số quan chức văn hóa và cả một số văn nghệ sĩ phê phán, khiến cho ca khúc nhanh chóng bị cấm phát hành.
Hoàng Việt còn là một trong những nhạc sĩ tiên phong trong sáng tác và phát triển nhạc giao hưởng tại Việt Nam. Tác phẩm sử thi đồ sộ "Quê hương" được ông sáng tác năm 1964 là tổ khúc giao hưởng bốn chương đầu tiên của nền âm nhạc hàn lâm Việt Nam. Năm 1966, Hoàng Việt cùng một số văn nghệ sĩ vào phục vụ chiến trường miền Nam. Ông qua đời ngày 31 tháng 12 năm 1967 tại quê ngoại của mình, tỉnh Tiền Giang sau khi tham gia chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam.
Hoàng Việt được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Ngày 22 tháng 11 năm 2011, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cùng 4 nhạc sĩ đương thời nổi tiếng khác. Tuy cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật không kéo dài nhưng Hoàng Việt được nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ và khán giả nhận định ông đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam nhiều tác phẩm giá trị.
Đầu đời
Hoàng Việt tên khai sinh là Lê Chí Trực. Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1928 tại một nhà thương ở Chợ Lớn (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) theo lời kể của người cha tu hành. Quê cha của ông ở thị xã Bà Rịa (nay là thành phố Bà Rịa), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn quê mẹ ở xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Ông là con út nhưng cũng là con trai duy nhất trong gia đình với 5 người chị gái. Tuy mẹ qua đời sớm nhưng ông sống và trưởng thành ở quê mẹ Tiền Giang.
Hoàng Việt có năng khiếu âm nhạc bẩm sinh. Từ nhỏ, ông đã có niềm đam mê với âm nhạc, biết chơi nhiều loại nhạc cụ như mandolin, vĩ cầm, ghi-ta, accordeon. Niềm cảm hứng đưa ông vào con đường nghiên cứu và sáng tác âm nhạc được cho là Lê Minh nhạc đoàn và ABC nhạc đoàn.
Sự nghiệp
Những năm đầu
Từ những năm học trung học ở Sài Gòn, Hoàng Việt đã viết những ca khúc như "Chí cả", "Biệt đô thành" và _"_Tiếng còi trong sương đêm" với bút danh Lê Trực. Trong đó ca khúc theo điệu tango "Tiếng còi trong sương đêm" được người dân Sài Gòn và Nam Bộ yêu thích qua tiếng hát của Khánh Vân. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 ở tuổi 17, Hoàng Việt tham gia công tác tại Ty Công an Bà Rịa. Thực dân Pháp lúc ấy đang chiếm đóng gần hết đất Bà Rịa, khiến ông phải chuyển về sống ở Sài Gòn. Vốn có năng khiếu bẩm sinh và lòng đam mê âm nhạc, ông tham gia hoạt động trong nhóm Thăng Long ở Sài Gòn. Đây là một nhóm trẻ yêu nước hoạt động bí mật, trong nhóm có một số thành viên am hiểu âm nhạc.
Cái tên Lê Trực khi ấy gây được tiếng vang một thời ở Sài Gòn. Khoảng cuối năm 1949, nhóm Thăng Long bị bại lộ nên các thành viên phải ly tán, được cho là để tránh “phòng nhì” đang truy tìm. Nhạc sĩ Hoàng Việt cùng vợ đang mang thai con trai đầu lòng đã chạy về An Hữu, Cái Bè và dự định vào khu giải phóng ở Đồng Tháp Mười. Khi vào vùng giải phóng thuộc địa phận Cái Bè, ông gặp ngay du kích xã. Ông tự xưng mình là nhạc sĩ Lê Trực. Người du kích xã đã ngay lập tức nói: “Lê Trực là nhạc sĩ lãng mạn, nhạc sĩ phản động ở Sài Gòn” và bắt ông giải về trại giáo hóa của huyện, sau đó được đưa về trại giáo hóa của tỉnh Mỹ Tho. Hai vợ chồng ông bị giam ở trại trong 3 tháng. Tổ quân nhạc Khu 8 khi ấy được thành lập. Hai vợ chồng ông được đưa bảo lãnh đưa về Tổ Quân nhạc (lúc đó đóng ở địa phận Thiên Hộ, Đồng Tháp Mười). Ông từng lấy bút danh trong khoảng thời gian này là "Hoàng Việt Hận". Mặc dù sống trong điều kiện gian nan tại trại giáo hóa nhưng Hoàng Việt vẫn sáng tác được một số bài hát trong đó có "Mong ngày về_". Sau khi đã về Tổ Quân nhạc Khu 8, ông tiếp tục cho ra đời hàng loạt bài hát mới, trong đó có "Lá xanh". Năm 1948, bút danh bấy giờ của ông chỉ còn chữ "Hoàng Việt", còn chữ “Hận” đã được loại bỏ._
Tham gia cách mạng và gây dựng sự nghiệp
Năm 1951, Hoàng Việt được điều lên chiến khu Miền Đông Nam Bộ. Ông tham gia Ban Tuyên truyền Phân liên khu, rồi nhập vào Đoàn Văn công Phân Liên khu miền Đông. Năm 1952, bài hát "Lên ngàn" được Hoàng Việt sáng tác sau trận lũ lụt, khi đó ông cùng nhà thơ Bảo Định Giang có dịp cùng đi công tác ở Đước Hòa Bình và nghe người dân nơi đây phản ánh cuộc sống nhiều vấn đề về nạn lụt cũng như tỏ ra bi quan trước tình hình khó khăn ngày càng chồng chất. Năm 1954, Hoàng Việt tập kết ra miền Bắc Việt Nam, để lại người vợ và ba đứa con ở miền Nam. Ngay khi tập kết ra Hà Nội, ca khúc "Mùa lúa chín" của ông nhận được giải thưởng "ca khúc toàn quốc". Năm 1957, sau hơn hai năm không liên lạc, Hoàng Việt nhận được thư vợ từ miền Nam gửi ra, lá thư đã phải di chuyển qua tận Pháp rồi mới về được Hà Nội để đến tay ông. Nhạc phẩm "Tình ca" đã ra đời trong những năm đầu đất nước bị chia cắt, là một trong ca khúc nổi tiếng nhất của ông, mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Khi ở miền Bắc xuất hiện thể loại nhạc tình ca (Romance) thì Hoàng Việt đã nổi lên bản "Tình ca" mà tới bây giờ, bài hát này vẫn được nhiều người thuộc lòng và yêu thích. Những bài hát Hoàng Việt viết trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam ở Nam Bộ đều được phổ biến rộng khắp ở miền Nam. Sau năm 1954, nhũng bài hát kháng chiến của nhạc sĩ được phát hành rộng rãi và đến với mọi người qua làn sóng đài phát thanh và được đông đảo nhân dân Việt Nam đón nhận.
Du học, trở về nước chiến đấu và tiếp tục sáng tác
Hoàng Việt bắt đầu những năm tháng học chính quy tại chuyên ngành sáng tác khóa đầu tiên với 15 học viên khác khi Trường âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam) thành lập năm 1956. Năm 1958, Hoàng Việt được cử đi học tiếp tại Nhạc viện Quốc gia Sofia (Bulgaria). Tại đây, dưới sự giáo dưỡng trực tiếp của vị giáo sư âm nhạc Goléminiff, Hoàng Việt đã hoàn thành bản giảo hưởng "Quê hương" cung Đô trưởng, một trong những bản tổ khúc giao hưởng 4 chương đầu tiên của Việt Nam, cũng là tác phẩm lớn đầu tiên và cuối cùng của Hoàng Việt. Bản giao hưởng này đánh đã dấu được sự ra đời một thể loại lớn của nhạc bác học – hàn lâm Việt Nam và được thế giới thời bấy giờ chú ý. Trước đó, Việt Nam cũng đã có tác phẩm giao hưởng nhưng là giao hưởng thơ 1 chương hay Tổ khúc giao hưởng ngắn gọn.
Trở về Việt Nam năm 1964 với bằng tốt nghiệp hạng ưu, Hoàng Việt công tác tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, sau khi trình diễn báo cáo bản giao hưởng của mình tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ông xin được trở lại chiến trường miền Nam để tham gia chiến đấu và tiếp tục viết những bản giao hưởng khác.
Năm 1966, Hoàng Việt cùng một số văn nghệ sĩ (trong đó có Lưu Hữu Phước, Nguyễn Quang Sáng...) vào chiến trường Nam Bộ và làm việc tại Đoàn Văn công Quân giải phóng miền Nam. Thập niên 1960, nhiều nhạc sĩ đã vào chiến trường miền Nam để sáng tác âm nhạc bằng những bút danh mới. Đầu năm 1966, nhạc sĩ Hoàng Việt vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Trong lá thư viết ngày 9 tháng 3 năm 1966 gửi về Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông thổ lộ: “Những đêm đi rừng từ 2 giờ khuya leo dốc băng rừng, đi suốt đêm 7 giờ tối hôm sau mới đến chỗ nghỉ, chân đau khập khiễng bước một mình theo sau đoàn, xa cả một, hai cây số […] Leo một bậc đá, chân đau buốt óc, nhói tim. Dốc cao, đường dài dằng dặc...” Tuy vậy, trên đường đi, ông vẫn tranh thủ phác thảo vở nhạc kịch "Bông Sen". Năm 2007, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức buổi biểu diễn kỷ niệm 40 năm ngày mất của nhạc sĩ Hoàng Việt.
Đời tư
Năm 1949, Hoàng Việt kết hôn với Lâm Thị Ngọc Hạnh tại Sài Gòn, người được cho là hình mẫu trong bài hát "Tình ca". Ông có tất cả bốn người con với bà Ngọc Hạnh. Con trai cả của ông là Lê Chí Dũng, một đạo diễn quay phim. Người con trai thứ hai là nhà văn Lê Hữu Dụng. Người con thứ ba là con gái tên Lê Thị Thanh Bình. Con trai út của ông là Lê Trùng Phùng (Lâm Lê Dũng) được sinh ra sau khi Hoàng Việt qua đời. Trong số cháu ngoại của Hoàng Việt, có một người được gia đình đặt tên là Nguyễn Thụy Tình Ca nhằm gợi nhớ tới nhạc sĩ.
Phong cách sáng tác và nghệ thuật
Cuộc đời hoạt động nghệ thuật không kéo dài bao lâu nhưng Hoàng Việt đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam nhiều tác phẩm giá trị.
Thời điểm tập kết ra Bắc để học tại trường Âm nhạc Việt Nam, Hoàng Việt và nhạc sĩ Huy Thục từng ở chung một phòng trong căn nhà mới ở số 13 phố Cao Bá Quát, Hà Nội, là nơi ông sáng tác bài "Tình ca". Trong thời gian hoạt động Cách mạng, Hoàng Việt cũng thiết lập được mối quan hệ với nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn. Hoàng Việt đã dạy Phạm Minh Tuấn chuyên môn, giúp sửa chữa, chỉnh sửa nhiều bài hát của các nhạc sĩ từ các chiến trường gửi về để sau đó Nguyễn Tấn Thi và Phạm Minh Tuấn dịch mật mã chuyển qua Thông tấn xã Giải phóng gửi ra Hà Nội đến nhà thơ Bảo Định Giang, từ đó các tác phẩm văn học nghệ thuật miền Nam được công bố ra trong và ngoài nước Việt Nam.
Đánh giá chung
Nhiều nhạc sĩ và nhà nghiên cứu âm nhạc tại Việt Nam như Ca Lê Thuần, Quang Hải hay Xuân Hồng, Nguyễn Thụy Kha... đã nhận xét Hoàng Việt là người đặt nền móng cho tình ca cách mạng và cũng là người đặt nền móng cho nhạc giao hưởng Việt Nam, là những nền tảng cốt lõi góp phần xây dựng cho âm nhạc Việt Nam hiện đại. Một số ca khúc của ông cũng được nhận xét là "những ca khúc tình cảm, có nội tâm cao."
Trong hoàn cảnh gian nan của cuộc chiến tranh, âm nhạc của ông sáng tác cũng được cho là "có một sự vui tươi, nhẹ nhàng đến lãng mạn được thể hiện ở từng ca khúc". Chất chiến đấu và trữ tình trong âm nhạc của Hoàng Việt cũng được cho là kết hợp với nhau "như một hợp kim vừa đẹp, vừa bền". Nhà lý luận phê bình Phùng Văn Khai ở tạp chí Văn nghệ quân đội cho biết: "Bài Tình ca được Hoàng Việt sáng tác tại nhà số 4 Lý Nam Đế là cái nôi cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng của các văn nghệ sĩ quân đội một thời."
Vinh danh
Hoàng Việt được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I vào năm 1996. Hãng phim Thời sự Tài liệu Việt Nam cũng đã hoàn thành và cho ra mắt khán giả bộ phim tài liệu video về nhạc sĩ Hoàng Việt với tiêu đề "Hoàng Việt – tình ca Việt Nam".
Tranh cãi
Ca khúc đầu tay của Hoàng Việt tuy được người dân Sài Gòn và Nam bộ yêu mến nhưng vẫn bị cho là có ca từ và giai điệu "ủ ê". Nhưng theo NSƯT Minh Trị thì hình tượng "Tiếng còi trong sương đêm" là hình bóng của Việt Minh, một đoàn "hùng binh âm thầm xông lướt trong đêm".
Ca khúc "Tình ca 2"
Sau khi Hoàng Việt qua đời, vợ ông là bà Ngọc Hạnh vẫn lưu giữ tất cả những gì ông gửi về từ Bulgaria một cách cẩn thận và không cho phép bất kỳ người nào tiếp cận đến chúng. Chính vì vậy mà tất cả bốn người con của ông bà đều không hề biết trong tủ còn có nhiều tác phẩm của Hoàng Việt chưa từng được công bố. Vào năm 2006, bà Ngọc Hạnh chợt nhớ là còn lưu giữ một số bản nhạc của ông gửi về khi xưa. Trong số các bản nhạc này có bài "Tình ca 2". Sau đó, tác phẩm được xuất bản sau gần 50 năm bị lãng quên, Tuy nhiên theo báo Dân trí, ca khúc "Vẳng từ quê mẹ" cũng được coi như bản "Tình ca 2" vì theo tờ báo này tiết lộ, nhạc sĩ nghĩ ca khúc này không phù hợp với giai đoạn thời kỳ đó nên ông đã không công bố cho bạn bè và công chúng, cho đến khi có một người đi mua hoa vô tình thấy tờ giấy gói hoa là bản nhạc này nên đã gửi về Đài Tiếng nói Việt Nam.
Danh sách tác phẩm
Bút danh Lê Trực
Các tác phẩm sau đây sáng tác từ năm 1944–1946:
- "Chí cả"
- "Tiếng còi trong sương đêm"
- "Biệt đô thành"
- "Gió hờn"
- "Lời chinh phụ"
- "Đêm tàn trên bãi chiến"
- "Chim lạc đàn"
- "Nghệ sĩ vô danh"
- "Tàn một mùa thu"
- "Một thời gian sau"
- "Lưu luyến"
- "Tiếng hát ngày xuân"
- "Bài hát ngày xưa"
- "Chim lồng"
Bút danh Hoàng Việt
Các tác phẩm sau đây sáng tác từ năm 1948–1965:
- "Về đi anh"
- "Sở Thượng giang"
- "Mong Bác vô thăm"
- "Trường Quân chính Khu 8"
- "Ca mừng xuân"
- "Giờ đã đến"
- "Ngày 9-1"
- "Chiến dịch xuân"
- "Lá xanh"
- "Lên ngàn"
- "Nhạc rừng"
- "Mùa lúa chín"
- "Lực lượng ta hùng mạnh"
- "Tìm em ở đâu"
- "Nhớ quê hương"
- "Tình ca"
- "Tình ca 2"
- "Quê mẹ"
- "Tình em"
- "Quê hương"
- "Giết giặc Mỹ cứu nước"
Bút danh Lê Quỳnh
Các tác phẩm sau đây sáng tác từ năm 1966–1967:
- "Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng"
- "Tuyến lửa Đông Xuân 66-67"
- "Gửi anh cao xạ pháo Hà Nội"
- "Bản đàn xuân chọn bốn âm thanh"
- "Bông sen"
- "Đêm trăng trên đất Kiến Tường"
, là một nhạc sĩ, nghệ sĩ Visual Kei/J-Rock Nhật Bản nổi tiếng. Thường được gọi bởi nghệ danh **hide** (phát âm theo tiếng Nhật , viết hoa toàn bộ khi hoạt động trong