✨Nguyễn Đình Hoàn (võ tướng)

Nguyễn Đình Hoàn (võ tướng)

Nguyễn Đình Hoàn (? -1765), tên chữ là Linh Thuyên; là võ quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Nguyễn Đình Hoàn là người làng Hương Duệ, huyện Kỳ Hoa (nay là hai huyện Kỳ Anh và Cẩm Xuyên), tỉnh Hà Tĩnh. Ông thuộc dòng họ Nguyễn Đình ở làng Lam Vĩ, xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Nguyễn Đình Quế, cũng là người lỗi lạc, có sức mạnh và chí lớn.

Năm 1740, Nguyễn Đình Hoàn làm Thị vệ trong phủ chúa Trịnh Giang. Lúc bấy giờ, chúa bị bệnh nặng phải ở một chỗ kín, hoạn quan Hiệp quận công Hoàng Công Phụ nhân đó mà chuyên quyền, khiến triều chính rối nát. Thấy vậy, Nguyễn Đình Hoàn cùng các quan là Nguyễn Quý Cảnh, Trương Khuông và Vũ Liễu bí mật bàn mưu lập em chúa là Trịnh Doanh lên làm chúa mới.

Ngày lập Trịnh Doanh, Nguyễn Đình Hoàn rước chúa mới lên triều, đốc các đạo quân hộ vệ làm lễ. Khi ngôi chúa đã định, ông nhận lệnh đem quân bảo vệ cung Thưởng Trì (nơi an trí Thái thượng vương Trịnh Giang), đồng thời đi bắt quyền thần Hoàng Công Phụ. Khi bàn đến công phò lập, ông được phong làm Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, rồi Tuyên lực Kiệt tiết công thần.

Cuối năm ấy (1740), chúa Trịnh Doanh và Nguyễn Đình Hoàn đem đại quân đi dẹp quân nổi dậy của Vũ Đình Dung ở Ngân Già thuộc Sơn Nam Hạ (nay là Nam Định). Sách Lịch triều hiến chương loại chí (mục Nhân vật chí) kể: :''...Ngân Già là giặc hiệt kiệt nhất ở vùng Nam. Chúng đều hung tợn, không sợ chết, tiến lui không có trận pháp, gặp quân là vác đao xông vào chém bừa chân người, chân ngựa. Các tướng đã nhiều lần bị thua. Đến nay chúa (Trịnh Doanh) thân đi đánh. Giữa lúc các quân hợp sức đánh chưa hạ được giặc, ông (Nguyễn Đình Hoàn) đem quân bản bộ đi đường tắt, bắn vào phía hữu trại giặc rồi phóng lửa đốt, khói mù trời, quân giặc tan vỡ cả. Quan quân thừa thắng giáp công, giặc chết nằm gối lên nhau, bắt tù được đầu sỏ đem chém... Bàn đến chiến công dẹp giặc thì trận thắng này của ông (Nguyễn Đình Hoàn) là hơn hết....

Sau đó (1741), ông được thăng làm Đô đốc, rồi Phụng thị Thư tả, nắm quyền Phủ sự trong phủ chúa. Trong đời vua Lê Hiển Tông, ông lại được gia phong làm Thái phó, vẫn nắm quyền Phủ sự trong phủ chúa cho đến khi về hưu. Sau lại được triệu ra làm Ngũ lão hầu chúa, tước Hoán Quận công, gia tặng Thái bảo.

Nguyễn Đình Hoàn mất năm Ất Dậu (1765), được an táng tại xứ Đồng Nhuệ, thôn Kiến Trung, xã Vạn Hà, phủ Thiệu Hóa (nay là thôn Kiến Trung, thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa), tỉnh Thanh Hóa.

Nghe tin ông mất, triều đình cử quan đến lo việc tang, ban tên thuỵ cho ông là Trung Nghị, và phong làm phúc thần (Cung ý Anh liệt Nghĩa khái Đại vương).

Nhận định

Danh sĩ Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận xét về ông như sau: :Ông là người mưu lược, quyết đoán, phò chúa lên ngôi lớn, giúp việc quân, công lao danh vọng long trọng, chúa rất quyến luyến chú trọng, tin cậy .

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Đình Hoàn** (? -1765), tên chữ là **Linh Thuyên**; là võ quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Đình Hoàn** là người làng Hương Duệ, huyện Kỳ
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Phạm Đình Trọng** (chữ Hán: 范廷重; 1715 - 1754) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài giữa thế
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Nguyễn Đình Phúc** (20 tháng 8 năm 1919 – 28 tháng 5 năm 2001) là một nhạc sĩ, họa sĩ và nhà thơ Việt Nam. Nguyễn Đình Phúc là nhạc sĩ thuộc thế hệ đầu
**Nguyễn Công Hoan** (6 tháng 3 năm 1903 – 6 tháng 6 năm 1977) là một nhà văn, nhà báo Việt Nam được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm
**Lăng Nguyễn Đình Chiểu** là nơi an táng và thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cùng với vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Khu di
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học **Nguyễn Đình Ngọc** (1932-2006) là một nhà toán học và nhà tình báo người Việt Nam. Ông được xem là một trong những người được ghi nhận là có
**Nguyễn Đình Triệu** (sinh ngày 4 tháng 11 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ V.League
**Nguyễn Thiện** (1420 - 1481) là một vị quan thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Nguyễn Thiện sinh năm Canh Tí (1420), quê ở trang Nguyên Xá, huyện Thiên Phúc,
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Danh nhân thời Đinh** là những nhân vật lịch sử đã theo giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, làm quan dưới triều đại nhà Đinh hoặc những người có liên quan
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
**Nguyễn Cảnh Quế** (1599-1658) là một vị tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, từng giữ chức Tả đô đốc Phó tướng, Phò mã Đô úy tước Liêu quận công. Tổ tiên
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Cảnh Chân** (chữ Hán: 阮景真; 1355 - 1409) là danh tướng chống quân Minh thời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông có nguồn gốc từ Đông Triều, Quảng Ninh trước khi về
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Đình Tú** là nhà văn quân đội, hiện đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông đã từng kinh qua các vị trí như Biên tập viên văn xuôi, Trưởng ban
**Trương Định** (chữ Hán: 張定; 1820 – 1864) hay **Trương Công Định** hoặc **Trương Trường Định**, là võ quan triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử
**Võ Tam Tư** (chữ Hán: 武三思, bính âm: Wu Sansi, ? - 7 tháng 8 năm 707), gọi theo thụy hiệu là **Lương Tuyên vương** (梁宣王), là đại thần, ngoại thích dưới thời nhà Đường
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
**Nguyễn Cảnh Hà** (1583-1645) giữ chức Thiếu phó Tả tư mã Đô úy tước Thắng quận công. Người gốc xã Ngọc Sơn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Làm tướng nhà Lê trung hưng trong
**Trương Huân** (; 16 tháng 9 năm 1854 - 11 tháng 9 năm 1923), tự **Thiếu Hiên** (少軒), hiệu **Tùng Thọ Lão nhân** (號松壽老人), là một tướng lĩnh bảo hoàng, trung thành với nhà Thanh
**Võ Duy Dương** (; Hán Việt: _Vũ Duy Dương_; 1827-1866), còn gọi là **Thiên hộ Dương** (千戶楊, do giữ chức Thiên hộ), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở Đồng
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Nguyễn Nho Tuý** (12 tháng 1 năm 1898 – 30 tháng 6 năm 1977) hiệu **Hàm Quan**, là một nghệ nhân tuồng người Việt Nam, nguyên Trưởng Ban nghiên cứu tuồng thuộc Vụ Nghệ thuật
**Nguyễn Cảnh Huy** (1473-1536) người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, là tướng nhà Lê trung hưng, tước Hoàng Hưu tử, Bình Dương hầu. Về sau được gia phong Phúc Khánh Quận
**Lữ Văn Hoán** (chữ Hán: 吕文焕, ? - ?), người huyện An Phong, Túc Châu, là tướng lĩnh cuối đời Nam Tống, trấn thủ thành Tương Dương 6 năm, cuối cùng đầu hàng nhà Nguyên
**Nguyễn Đình Nghị** (阮廷誼, 1883 - 1954), thường gọi là **Trùm Nghị**, là soạn giả, nhà cách tân chèo. Ông là người khai sinh ra trào lưu chèo cải lương, một trong những người tiên
**Nguyễn Văn Minh** (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân
**Đinh Công Trứ** (chữ Hán: 丁公著; 877 - 940) là tướng có công giúp Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền trong việc giành lại độc lập cho Việt Nam từ tay Trung Quốc trong thế
**Nguyễn Hữu Dật** (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều
**Nguyễn Đức Xuyên** (阮德川) (1759 – 1824) là một võ quan đại thần dưới triều Nguyễn. Ông tham gia cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại triều Tây Sơn rồi làm quan dưới thời
**Nguyễn Tuấn Thiện** (1401–1494) hay **Lê Thiện** là một danh tướng, khai quốc công thần triều Lê sơ. ## Xuất thân Ông là người làng Phúc Đậu, xã Phúc Dương nay là xã Kim Hoa,
**Nguyễn Văn Mạnh** (1921-1994) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia do Chính
**Nguyễn Khánh** (tên đầy đủ là **Nguyễn Ngọc Khánh**, 31 tháng 3 năm 1928 – 19 tháng 7 năm 2023) là một chính trị gia và là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông
**Đinh Nga** (thế kỷ X) là một vị tướng thời thời Đinh, được biết đến qua thần phả các đền thờ ở các xã Tân Sơn và Thụy Lôi (Kim Bảng, Hà Nam). Ông có
**Nguyễn Đình Cổn** (1652-1685) là danh thần thời vua Lê chúa Trịnh, làm đến Thiêm đô Ngự sử, Hình bộ Tả thị lang tước Đông Triều nam. ## Xuất thân Nguyễn Đình Cổn, hay còn
**Nguyễn Đình Tuân** (阮廷詢, 1867-1941; thường gọi là ông **Nghè Sổ**) người xã Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình,
**Hàn Chính** (chữ Hán: 韩政, ? – ?), tự **Quân Dụng**, người Ích Đô , tướng lãnh đầu đời Nguyên. ## Cuộc đời và sự nghiệp Cha là Hàn Tùng Chi, theo Tứ phò mã
**THPT Nguyễn Đình Chiểu** là một trường THPT công lập tại Bến Tre. Thành lập năm 1954, là ngôi trường trung học phổ thông lâu đời tại tỉnh Bến Tre. Là một trong những ngôi
Bảng tuần hoàn tiêu chuẩn 18 cột. Màu sắc thể hiện các nhóm [[nguyên tố hoá học của nguyên tử khác nhau và tính chất hóa học trong từng nhóm (cột)]] **Bảng tuần hoàn** (tên
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt