✨I (lớp tàu khu trục)

I (lớp tàu khu trục)

Lớp tàu khu trục I là một lớp bao gồm tám tàu khu trục cùng một soái hạm khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đặt hàng trong Chương trình Hải quân 1935, được đặt lườn vào năm 1936 và hoàn tất trong những năm 1937 và 1938. Bốn chiếc tương tự được Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng, trong đó hai chiếc được Hải quân Hoàng gia mua lại, đưa tổng số tàu của lớp đi vào hoạt động lên 11 chiếc, cho dù ba trong số những chiếc ban đầu đã bị mất vào lúc và nhập biên chế. Chúng đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và sáu chiếc đã bị mất, cùng một chiếc thứ bảy bị loại bỏ như một tổn thất cấu trúc toàn bộ.

Thiết kế

Lớp I là sự lặp lại của lớp H dẫn trước, ngoại trừ chúng có mười ống phóng ngư lôi (hai dàn năm ống phóng) thay vì tám. Chúng áp dụng cách sắp xếp cầu tàu và phòng lái mới như được thử nghiệm trên những chiếc và , ngoại trừ soái hạm khu trục . Inglefield còn có một cột ăn-ten trước lớn hơn kiểu ba chân, trong khi các tàu chị em có cột ăn-ten dạng cột. Trọng lượng nặng hơn bởi dàn ống phóng ngư lôi cũng như trang bị cả thiết bị quét mìn và thả mìn sâu (Các con tàu trước đây chỉ mang một trong hai loại) trên một lườn tàu cùng kiểu với lớp H gây ra sự mất cân bằng, đưa đến việc phải có thùng dằn khi lượng nhiên liệu xuống thấp.

Tất cả các con tàu đều được gắn thiết bị quét mìn, cùng trang bị mìn sâu và sonar Asdic cho nhiệm vụ chống tàu ngầm. Tất cả đều có khả khả năng cải biến thành tàu rải mìn, bằng cách tháo dỡ các khẩu pháo 4,7 inch ‘A’ và ‘Y’, các ống phóng ngư lôi và thiết bị quét mìn, cho phép mang theo đến 60 quả mìn. Tuy nhiên, chỉ có bốn chiếc được cải biến cho vai trò này.

Các con tàu Thổ Nhĩ Kỳ

Những chiếc lớp I Thổ Nhĩ Kỳ có thiết kế tương tự như các con tàu của Anh, nhưng chỉ mang tám ống phóng ngư lôi (hai dàn bốn ống phóng), giống như lớp H của Anh.

Các cải biến trong chiến tranh

Các cải biến sớm trong chiến tranh (có thể không áp dụng cho những chiếc bị mất sớm) bao gồm thay thế dàn ống phóng ngư lôi phía sau bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không, cắt ngắn ống khói phía sau và cột ăn-ten chính để cải thiện góc bắn của kiểu vũ khí này, và bổ sung một cặp pháo Oerlikon 20 mm hai bên cánh của cầu tàu. Một dàn radar Kiểu 286 bước sóng mét cảnh báo mặt đất được bổ sung khi nó sẵn có, đồng thời các khẩu súng máy phòng không Vickers kém hiệu quả được thay thế bởi pháo Oerlikon. Ống phóng giữa của các dàn phóng ngư lôi được tháo dỡ để giảm bớt trọng lượng nặng bên trên của các con tàu.

được tháo bỏ tháp pháo ‘Y’ để lấy chỗ chứa thêm mìn sâu lên tổng cộng 110 quả và súng cối. Những chiếc sống sót được trang bị thêm một cặp pháo Oerlikon thứ ba ngang với vị trí đèn pha tìm kiếm, và khẩu pháo 12-inch được tháo dỡ để gia tăng lượng mìn sâu mang theo. Trên một số con tàu, tháp pháo ‘A’ được thay bằng một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog ném ra phía trước, nhưng cải biến này dường như được đảo ngược sau đó. , , và được tháo dỡ tháp pháo ‘B’, và hai khẩu pháo QF 6 pounder 10 cwt (2,25 inch/57 mm L/47) được bổ sung trên bệ Mark 1* dùng để chống lại những chiếc E-boat, cùng với một dàn Hedgehog.

Sau này Inglefield được trang bị lại dàn ống phóng ngư lôi thứ hai, nhưng cũng giống như các tàu chị em, ống phóng giữa được tháo dỡ. Một khẩu pháo phòng không thứ hai thay thế cho khẩu pháo ‘X’, và nó tổng cộng sáu khẩu Oerlikon. Radar Kiểu 291 sau đó được bổ sung trên đỉnh cột ăn-ten trước cũng như là một bộ định vị bằng sóng cao tần "Huff-Duff" trên một số con tàu. Những chiếc nguyên của Thổ Nhĩ Kỳ cũng được cải biến tương tự những tàu chị em lớp I. Inconstant sau này được được trang bị radar Kiểu 270, một loại radar bước sóng xen-ti mét dò tìm mục tiêu, thay cho bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa trên cầu tàu. Cũng vậy, cuối cùng nó có sáu khẩu Oerlikon.

Những chiếc trong lớp

Hải quân Hoàng gia Anh

† = trang bị như tàu rải mìn

Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ

Bốn chiếc được Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng vào năm 1938. Khi chiến tranh nổ ra, hai chiếc được Anh mua lại, và hai chiếc được bàn giao cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1942 như những chiếc SultanhisarDemirhisar.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu khu trục I** là một lớp bao gồm tám tàu khu trục cùng một soái hạm khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đặt hàng trong Chương trình Hải quân 1935,
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
**Lớp tàu khu trục Hunt** là một lớp tàu khu trục hộ tống được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những chiếc đầu tiên được đặt
**_Arleigh Burke_** là một lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường thuộc biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Nó được xây dựng dựa trên Hệ thống Tác chiến Aegis và radar mảng pha quét
**Lớp tàu khu trục G và H** là một lớp gồm 24 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo và hạ thủy từ năm 1935 đến năm 1939; hai chiếc
**Lớp tàu khu trục _Wickes**_ (từ DD-75 đến DD-185) là một nhóm 111 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1917-1919. Cùng với 6 chiếc lớp _Caldwell_ dẫn trước
**Lớp tàu khu trục _Enoki**_ (tiếng Nhật: 榎型駆逐艦 - Enokigata kuchikukan) là một lớp bao gồm sáu tàu khu trục hạng nhì của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**Lớp tàu khu trục A** là một hải đội bao gồm tám tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Hải quân 1927. Một chiếc thứ chín,
**Tàu khu trục lớp _Gwanggaeto the Great**_ hay **lớp _Gwanggaeto Đại đế_** (), còn được gọi là **KDX-I**, là một lớp tàu khu trục của Hải quân Hàn Quốc, một số nguồn khác phân loại
**Lớp tàu khu trục L và M** là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong
**Lớp tàu khu trục _Momo**_ (tiếng Nhật: 桃型駆逐艦 - Momogata kuchikukan) là một lớp bao gồm bốn tàu khu trục hạng nhì của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**Lớp tàu khu trục _Isokaze**_ (tiếng Nhật: 磯風型駆逐艦 - Isokazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**Lớp tàu khu trục _Kaba**_ (tiếng Nhật: 樺型駆逐艦 - Kabagata kuchikukan) là một lớp bao gồm mười tàu khu trục hạng nhì của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo vào giai đoạn
**Lớp tàu khu trục _Sakura**_ (tiếng Nhật: 櫻型駆逐艦 - Sakuragata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai tàu khu trục hạng nhì của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trước Chiến tranh
**Tàu khu trục Type 052C** (NATO/OSD định danh **tàu khu trục lớp Lữ Dương II**) là một lớp tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường được chế tạo cho Hải quân Trung Quốc (PLAN).
**Lớp tàu khu trục C và D** là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta
**Lớp tàu khu trục _Urakaze**_ (tiếng Nhật: 浦風型駆逐艦 - Urakazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai tàu khu trục hạng nhì được hãng đóng tàu Yarrow tại Scotland chế tạo cho Hải quân Đế
phải|Sơ đồ mô tả lớp _Fubuki_ của Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ **Lớp tàu khu trục _Fubuki**_ (tiếng Nhật: 吹雪型駆逐艦-Fubukigata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai mươi bốn tàu khu trục
**Lớp tàu khu trục _Clemson**_ là một nhóm 156 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục vụ cho đến hết Chiến
**Lớp tàu khu trục _Kamikaze**_ (tiếng Nhật: 神風型駆逐艦, Kamikazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm chín tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo không lâu sau khi
**Lớp tàu khu trục _Umikaze**_ (tiếng Nhật: 海風型駆逐艦 - Umikazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo sau cuộc Chiến
**Lớp tàu khu trục _Kawakaze**_ (tiếng Nhật: 江風型駆逐艦 - Kawakazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**Lớp tàu khu trục _Caldwell**_ là một lớp tàu khu trục được đưa ra phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ lúc gần cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Hai chiếc đã bị loại
**Lớp tàu khu trục _Sims**_ bao gồm 12 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đóng tại bảy xưởng tàu khác nhau và
**Tàu khu trục lớp_Type 052B**_ (hay còn gọi là **lớp _Quảng Châu_**, tên hiệu NATO: **Lớp _Lư Dương I**_) là một lớp tàu khu trục tên lửa đa năng do Cộng hòa Nhân dân Trung
**_Yūgiri_** (tiếng Nhật: 夕霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Mochizuki_** (tiếng Nhật: 望月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Murakumo_** (tiếng Nhật: 叢雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
thumb|right|Tàu tiếp liệu khu trục cùng với một chi hạm đội tàu khu trục [[Allen M. Sumner (lớp tàu khu trục)|lớp _Allen M. Sumner_ tại vịnh Subic, Philippines, tháng 11, 1963]] **Tàu tiếp liệu khu
**Lớp tàu tuần dương _Roon**_ là lớp một lớp tàu tuần dương bọc thép gồm hai chiếc được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào đầu Thế kỷ 20. Hai chiếc trong lớp, _Roon_
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên