✨Đô la Tây Ban Nha

Đô la Tây Ban Nha

Đô la Tây Ban Nha, còn được gọi là "mảnh tám" (Tiếng Tây Ban Nha: Real de a ocho, Dólar, Peso duro, Peso fuerte hoặc Peso), là một đồng xu bạc có đường kính khoảng 38 mm (1,5 in) có tỷ giá quy đổi bằng 8 đồng Real Tây Ban Nha. Nó được đúc trong lãnh thổ Đế quốc Tây Ban Nha sau cuộc cải cách tiền tệ năm 1497.

Đô la Tây Ban Nha được sử dụng rộng rãi như đơn vị tiền tệ thanh toán thương mại quốc tế. Một số quốc gia đã cho đóng dấu ngược (countermarked) lên xu này để sử dụng làm nội tệ của quốc gia mình. Đến thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa thực dân phương Tây bành trướng ra khắp châu Á, họ đã cho đúc các loại xu bạc theo tiêu chuẩn của đô la Tây Ban Nha để sử dụng trong thương mại ở thuộc địa, lịch sử tiền tệ gọi chúng là "Đô la thương mại", các đồng tiền này có thể kể đến như: Piastre Đông Dương do Pháp đúc, lưu hành ở Đông Dương thuộc Pháp; Đô la Thương mại Nhật, được đúc dưới thời Thiên hoàng Minh Trị; Đô la Hải thần của người Anh; Đô la Rồng được đúc cuối thời Nhà Thanh; Đô la Thương mại Mỹ...

Đô la Tây Ban Nha chính là đồng tiền tiêu chuẩn mà đồng Đô la Mỹ đầu tiên đã nương theo, chúng được đúc và lưu hành cho đến khi có Đạo luật đúc tiền 1857. Vào thế kỷ XVIII, vì đô la Tây Ban Nha được sử dụng rộng rãi ở châu Âu, châu Mỹ và Viễn Đông, nên nó đã được chấp nhận như một loại tiền tệ quốc tế đầu tiên trong lịch sử. Ngoài Đô la Mỹ, một số loại tiền tệ khác, chẳng hạn như Đô la Canada, Yên Nhật, Nhân dân tệ của Trung Quốc, Peso Philippines và các loại tiền tệ ở Nam Mỹ, ban đầu đều dựa trên tiêu chuẩn của đồng đô la Tây Ban Nha và đồng bạc 8 real của các thuộc địa của Tây Ban Nha. Người ta thường chấp nhận rằng, biểu tượng của đồng đô la hiện nay ($) được tạo ra từ hình tượng của 2 chiếc cột và dải ruy băng cuốn quanh cột trên mặt trước đồng Hispan (8 real Tây Ban Nha).

Thuật ngữ Peso trong tiếng Tây Ban Nha để chỉ mệnh giá 8 real và nó đã trở thành tiêu chuẩn cho các loại tiền tệ ở các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha, bao gồm: Argentina, Bolivia, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Dominica, Ecuador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua, Paraguay, Philippines, Puerto Rico, Peru, El Salvador, Uruguay và Venezuela. Trong số này, "peso" vẫn là tên tiền tệ chính thức ở Argentina, Chile, Colombia, Cuba, Cộng hòa Dominica, Mexico, Philippines và Uruguay.

Hàng triệu đô la Tây Ban Nha đã được đúc trong suốt vài thế kỷ. Chúng là một trong những đồng tiền được lưu hành rộng rãi nhất trong thời kỳ thuộc địa ở châu Mỹ, và vẫn được sử dụng ở Bắc Mỹ và Đông Nam Á vào thế kỷ 19.

Từ nguyên của "đô la"

thumb|1 conventionsthaler [[Francis I của Thánh chế La Mã|Francis I - 1765]] thumb|1 leeuwendaalder được đúc tại tỉnh [[Holland, 1585]] thumb|1 đô la thương mại Mỹ - 1875 CC Vào thế kỷ XVI, Bá tước Hieronymus Schlick của Bohemia bắt đầu cho đúc xu bạc được gọi là Joachimsthaler, trong Tiếng Đức có nghĩa là Thung lũng Thánh Joachim, là tên của nơi khai thác bạc để đúc ra loại tiền này - Thung lũng ở Dãy núi Ore. Joachimstaler sau đó được rút ngắn thành Thaler hoặc Taler, những từ tương tự được tìm thấy trong các ngôn ngữ châu Âu bao gồm "tálero" trong Tiếng Tây Ban Nha và "dollar" trong Tiếng Anh.

Tây Ban Nha

thumb|[[Xu bạc: 8 real Tây Ban Nha, 1757 - đúc dưới thời Fernando VI]] thumb|[[Xu bạc: 8 real của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha, mặt trước là chân dung vua Carlos III, đúc năm 1778]] thumb|5 Peseta [[Alfonso XII của Tây Ban Nha|Alfonso XII phiên bản đầu tiên - 1875 DEM''']]

Sau khi xu bạc Guldengrischen của Áo ra đời vào năm 1486, ý tưởng về một đồng bạc lớn với tỷ lệ bạc cao cuối cùng đã lan rộng ra khắp châu Âu và mau chóng trở thành hiện thực. Cuộc cải cách tiền tệ ở Tây Ban Nha đã dẫn đến sự ra đời của đồng 8 real (hoặc 1 peso) vào năm 1497, được đúc theo các tiêu chuẩn sau:

  • Năm 1497: 8 + 3⁄8 đô la với 25,563 gam bạc mịn.
  • Năm 1728: 8,50 đô la với 24,809 gam bạc mịn.
  • Năm 1772: 8,50 đô la với 24,443 gam bạc mịn, nhưng tỷ lệ bạc thực sự trong đồng xu từ năm 1772 - 1821 chỉ là 89% bạc.

Xu vàng với tên gọi escudo được đúc vào năm 1537, với hàm lượng vàng chứa 91,7%, tỷ lệ này giảm xuống còn 90,6% vào năm 1742 và 87,5% vào năm 1786. Mỗi đồng escudo vàng tương đương với 15 - 16 real bạc hoặc khoảng 2 đô la. Gold Doubloon có trị giá 2 escudo hoặc 4 đô la.

Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, các đồng xu được đúc với nhiều kiểu dáng khác nhau tại nhiều xưởng đúc tiền ở Tây Ban Nha và Tân Thế giới, các đồng tiền này đã được lưu thông rộng rãi bên ngoài biên giới của Tây Ban Nha. Nhờ có trữ lượng bạc khổng lồ được tìm thấy chủ yếu ở Potosí thuộc Bolivia ngày nay và các mỏ bạc nhỏ hơn ở Mexico (ví dụ, tại Taxco và Zacatecas) và các nguồn bạc khác của Tây Ban Nha trên khắp châu Mỹ. Các xu bạc ở các thuộc địa Tân Thế giới của Tây Ban Nha được đúc ở Potosí, Lima, Thành phố Mexico, ngoài ra còn có các xưởng đúc tiền nhỏ hơn ở Bogotá, Popayán, Guatemala City và Santiago. Đô la bạc ở thuộc địa có thể phân biệt với các loại xu bạc đúc ở Tây Ban Nha dựa trên hình tượng 2 cây trụ Hecules ở mặt sau đồng xu.

Mỗi đô la hoặc peso được chia thành 8 real ở Châu Mỹ Latinh cho đến thế kỷ XIX khi các đồng peos được chi nhỏ thành 100 centavos. Tuy nhiên, sự hỗn loạn tiền tệ ở Tây Ban Nha bắt đầu dưới thời trị vì của Vua Philip II dẫn đến đồng đô la được chia nhỏ như sau (chỉ tính riêng tại Tây Ban Nha):

  • Cho đến năm 1642: 1$ = 8 real.
  • Từ năm 1642: 1$ = 10 real các tỉnh.
  • Từ năm 1687: 1$ = 15 + 2⁄34 reales de vellon.
  • Từ năm 1737: 1$ = 20 reales de vellon.
  • Năm 1864: 1$ = 2 Escudo bạc (khác với escudo vàng).
  • Vào năm 1869: 1$ = 5 Peseta Tây Ban Nha, đồng tiền có tỷ giá ngang bằng với Franc Pháp trong Liên minh tiền tệ Latinh.

Tây Ban Nha sử dụng đồng peseta vào năm 1869 và gia nhập Liên minh tiền tệ Latinh đồng nghĩa với việc chấm dứt dấu tích cuối cùng của đô la Tây Ban Nha trên chính đất nước Tây Ban Nha. Tuy đồng 5 peseta (hay duro) có đường kính nhỏ và trọng lượng nhẹ hơn một chút so với đô la Tây Ban Nha, nhưng tỷ lệ bạc trong xu cũng cao, lên đến 90%.

Vào những năm 1990, những đồng xu kỷ niệm với mệnh giá 2.000 peseta đã được đúc, có kích thước và trọng lượng tương tự như đồng đô la.

Mexico

thumb|[[Xu bạc: 8 real Mexico - 1890 MoAM''']] Sau khi giành độc lập khỏi Tây Ban Nha vào năm 1821, nhà nước Mexico tiếp tục cho đúc xu bạc 8 real và escudo vàng cho đến khi tiền tệ Mexico được thập phân hoá và cho đúc đồng peso thay thế. Trong suốt thế kỷ XIX, xu bạc 8 real Mexico được người Việt trước đây gọi là xu con cò, được đúc theo tiêu chuẩn của đô la Tây Ban Nha thời thuộc địa. Trong khi đó đồng peso được đúc với trọng lượng 27,07 gam, với tỷ lệ bạc trong xu là 90,28% và đồng escudo vàng có trọng lượng 3,383 gam và tỷ lệ vang trong xu là 87,5%. Các đồng 8 real và peso do nhà nước Mexico độc lập đúc tiếp tục là một loại xu bạc thương mại được giao dịch quốc tế phổ biến trong suốt thể kỷ XIX.

Sau năm 1918, đồng peso bị giảm kích thước và tỷ lệ bạc, sau đó những năm 1940 và 1950 lại tiếp tục giảm. Tuy nhiên, các đồng 2 peso (1921); 5 peso (1947) và 10 peso (1955) đã được đúc với kích thước và tỷ lệ bạc tương đương như đồng peso cũ.

Ireland và các thuộc địa của Anh

"Cob" là thuật ngữ mà Ireland và các thuộc địa của Anh dùng để chỉ đồng bạc 8 real của Tây Ban Nha, bởi vì trong thời kỳ đó, các đồng tiền vàng và bạc của Tây Ban Nha có hình dạng bất thường và thô.

Châu Úc

thumb|left| 1 đô la Holey được làm từ xu bạc 8 real Tây Ban Nha, với mệnh giá là 5 shilling thumb|xu bạc dump với mệnh giá 15 pence được đục ra từ trung tâm xu bạc đô la Tây Ban Nha, với mệnh giá là 15 pence Sau khi Thuộc địa New South Wales được thành lập ở Lục địa Úc vào năm 1788, nó đã gặp phải vấn đề thiếu tiền đúc, vì các tàu buôn đã lấy các xu bạc ra khỏi thuộc địa để đổi lấy hàng hoá. Năm 1813, Thống đốc Lachlan Macquarie đã sáng tạo ra một ý tưởng biến nguồn xu bạc đô la Tây Ban Nha do chính phủ Anh gửi đến thuộc địa thành 10.000 bảng Anh. Để ngăn chặn nguồn đô la Tây Ban Nha này thất thoát ra ngoài thuộc địa New South Wales và tăng gấp đôi mệnh giá của xu bạc, giữa các đồng xu đã bị đục lỗ. Phần tâm được đục lỗ gọi là "dump", có giá trị là 15 pence, và vành ngoài còn lại được gọi là "Đô la holey" có trị giá 5 shilling. Mặt trước của đồng đô la holey được đóng dấu dòng chữ "New South Wales" kèm theo năm 1813 và mặt sau của đồng xu có dòng chữ "5 shilling". Trong khi đó mặt trước của đồng xu "dump" được đóng dấu vương miện, dòng chữ "New South Wales" kèm năm 1813, mặt sau của đồng xu là dòng chữ "15 pence".

Các đồng tiền được cắt ra từ đô la Tây Ban Nha trở thành những loại tiền tệ chính thức đầu tiên được lưu thông ở Úc, tuy thời gian tồn tại tương đối ngắn. Quốc hội Anh đã thông qua Đạo luật Sterling bạc vào năm 1825, đạo luật này đưa tiền xu của Vương quốc Anh trở thành tiền tệ duy nhất được lưu hành ở các thuộc địa Úc châu của Anh, chấm dứt thời kỳ tồn tại của đồng đô la holey.

Châu Á

thumb|1 yuan/đô la [[Phổ Nghi|Xuantong năm thứ 3, Nhà Thanh - 1911, xu được đúc theo tiêu chuẩn như đô la Tây Ban Nha]] thumb|1 yuan/đô la [[Quang Tự|Guangxu - Tỉnh Hồ Bắc_1895 - 1907]] thumb|[[Xu bạc: 1 Dollar rồng Thương mại Nhật Bản, đúc năm 1876, niên hiệu Meiji năm thứ 9.]]

Vì những đồng xu bạc 8 real được vận chuyển với số lượng lớn vượt Thái Bình Dương đến Viễn Đông nên các băng nhóm cướp biển luôn xem các đoàn thuyền chuyên chở Tây Ban Nha là mục tiêu hấp dẫn. Những đồng bạc được đúc tại các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ, sau đó được vận chuyển trên những chuyến tàu bườm galleon để đến Philippines, tại đây họ trao đổi hàng hoá với các thương nhân và phần lớn nguồn xu bạc này chảy về Trung Quốc, vì các triều đại ở đây chỉ chấp nhận trao đổi các sản phẩm của mình bằng bạc. Tuyến đường thương mại vượt Thái Bình Dương này được gọi là Manila galleon.

Trong thương mại với Trung Quốc, xu bạc đô la Tây Ban Nha thường được các thương gia kiểm tra và xác định là xu bạc thật bằng cách đóng dấu lên xu (chopmark). Trong nhiều thế kỷ liền đồng 8 mảnh của Tây Ban Nha rất được người Trung Quốc ưa chuộn trong việc giao dịch, vì thế mà đồng bạc này trở thành tiêu chuẩn để các quốc gia khác đúc ra những xu bạc cho riêng mình phục vụ buôn bán với Trung Quốc và chúng được gọi là Đô la thương mại, tất cả các thông số gồm trọng lượng, đường kính và tỷ lệ bạc gần như đều tương đương với đô la Tây Ban Nha.

Bản thân Nhà Thanh và các quốc gia châu Á như Nhật Bản và Triều Tiên đều đúc ra những xu bạc dựa trên tiêu chuẩn và thông số của đô la Tây Ban Nha, những xu bạc này được gọi là Đô la rồng.

Các tên được sử dụng cho đô la Tây Ban Nha ở Trung Quốc thời Nhà Thanh bao gồm běnyáng (本 洋), shuāngzhù (双柱), zhùyáng (柱 洋), fóyáng (佛 洋), fótóu (佛 頭), fóyín (佛 銀) và fótóuyín (佛 頭 銀). từ "fó" trong những tên gọi dùng để ám chỉ chân dung của vua Tây Ban Nha trên những xu bạc, vì khuôn mặt của ông giống với hình ảnh của Đức Phật; và từ "zhù" trong những cái tên đó ám chỉ hai cây trụ Hercules trong quốc huy của Tây Ban Nha.

Hư cấu

thumb|left|Long John Silver cùng con vẹt và Jim Hawkins trong [[Đảo giấu vàng, tranh minh họa của N. C. Wyeth, 1911]] Trong văn hóa đại chúng và tiểu thuyết hiện đại, số tám thường gắn liền với khái niệm phổ biến về cướp biển.

  • Trong Đảo giấu vàng của Robert Louis Stevenson, con vẹt của Long John Silver dường như đã được huấn luyện để kêu lên, "Mãnh tám!" (Pieces of eight!) Việc sử dụng này đã gắn đồng xu (và những con vẹt) với những mô tả hư cấu về cướp biển. Xuất phát từ sự phổ biến rộng rãi của cuốn sách này, "Mảnh tám" đôi khi được dùng với nghĩa là "tiền" hoặc "rất nhiều tiền", bất kể mệnh giá cụ thể và cũng là từ đồng nghĩa với kho báu nói chung.
  • Trong Cướp biển vùng Caribbean 3: Nơi tận cùng thế giới, các Lãnh chúa hải tặc phải gặp nhau bằng cách đưa ra "Chín mảnh tám" ("Nine Pieces of Eight"), vì những mảnh này được Tòa án anh em đầu tiên sử dụng để phong ấn nữ thần Calypso trong hình dạng con người. Vì các Lãnh chúa Hải tặc, vào thời điểm phong ấn Calypso vào hình dạng con người, quá nghèo để có thể cung cấp đô la Tây Ban Nha thực sự, thay vào đó, họ đã chọn sử dụng bùa hộ mệnh cá nhân, ngoại trừ "mảnh thứ chín trong tám mảnh" (của Jack Sparrow), là một mảnh tám thực sự được treo trên chiếc khăn rằn của anh ấy trong tất cả các bộ phim, cho đến khi nó bị phá hủy trong phần phim thứ ba.
  • Pieces of Eight là album phòng thu thứ tám và album concept thứ hai của Styx, phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 1978.
  • Trong nhân vật phản diện "Going Postal" của Terry Pratchett, Reacher Gilt có một con vẹt mào tên là Alphonse đã được huấn luyện để nói "Mười hai rưỡi phần trăm!", tức là nói một phần tám.
  • Mảnh tám được sử dụng làm tiền tệ trên Đảo Khỉ (loạt phim).
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đô la Tây Ban Nha**, còn được gọi là "mảnh tám" (Tiếng Tây Ban Nha: Real de a ocho, Dólar, Peso duro, Peso fuerte hoặc Peso), là một đồng xu bạc có đường kính khoảng
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**Formosa thuộc Tây Ban Nha** là một thuộc địa tồn tại từ năm 1626 đến 1642 của đế quốc Tây Ban Nha ở phía bắc đảo Đài Loan. Mặc dù Đài Loan gần gũi về
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam** () gọi tắt là **quan hệ Việt – Tây**, là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**Felipe II của Tây Ban Nha** (21 tháng 5, 1527 – 13 tháng 9, 1598), cũng gọi **Felipe Cẩn Trọng** (Felipe el Prudente), là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, đồng
thumb|right|Bản đồ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đã hiệu đính và được thêm từ bản đồ đăng bởi D. Tomas Lopez. Năm 1810. **Tây Ban Nha** nằm ở phía tây nam của
**Các ngôn ngữ của Tây Ban Nha** () hay **các ngôn ngữ Tây Ban Nha** () là những ngôn ngữ được nói hoặc đã từng được nói ở Tây Ban Nha. Nhóm ngôn ngữ Rôman
**Fernando VI** (tiếng Anh: Ferdinand VI, 23 tháng 9 năm 1713 – ngày 10 tháng 8 năm 1759), có biệt danh là "el Prudente" (người có học) và "el Justo" (người công chính), là vua
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
nhỏ|Con tem này được phát hành vào năm 1924. **Sahara thuộc Tây Ban Nha** là tên đã được dùng cho lãnh thổ Tây Sahara ngày nay khi nó còn là lãnh thổ do Tây Ban
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Đệ nhị Cộng hòa Tây Ban Nha** () là một nhà nươc trong lịch sử Tây Ban Nha có khuynh hướng thiên tả, tồn tại từ năm 1931 đến năm 1939 tại Tây Ban Nha.
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Tiếng Tây Ban Nha México** (_español mexicano_) là một tập hợp giống của tiếng Tây Ban Nha như nói ở México và ở một số bộ phận của Hoa Kỳ và Canada. Tây Ban Nha
nhỏ|409x409px|Bản đồ các thuộc địa châu Mỹ của Tay Ban Nha vào thế kỷ 18. **Thuộc địa Tây Ban Nha ở Châu Mỹ** dùng để chỉ tên tập thể của các thuộc địa thuộc sở
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Động từ tiếng Tây Ban Nha** tạo ra một khía cạnh khó của tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ tương đối tổng hợp với một mức độ biến tố
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Cuộc chinh phục Chiapas của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột quân sự khởi phát bởi những chinh phục tướng công Tây Ban Nha nhằm chống lại các chính thể Trung Bộ
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái
**Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha** (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu
**Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha** (, ) là một chặng đua Công thức 1 hiện được tổ chức tại trường đua Barcelona-Catalunya. Chặng đua này là một trong những chặng
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Tiếng Tây Ban Nha** (**'), cũng được gọi là **tiếng Castilla** () hay **tiếng Y Pha Nho''' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
**Hạm đội Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Grande y Felicísima Armada_, "Hải quân vĩ đại và may mắn nhất") là hạm đội Tây Ban Nha đã giong buồm khởi hành từ bán đảo
thumbnail|right|[[Jamón Ibérico. Năm 2007 và 2010, "Bellota de Oro" được chọn là "giăm bông tốt nhất trên thế giới" ở IFFA Delicat]] thumbnail|right|[[Paella]] thumbnail|[[Pintxos ở Barcelona]] thumb|[[Lechazo quay]] **Ẩm thực Tây Ban Nha** bị ảnh
Đây là cuộc tổng tuyển cử được tổ chức vào Chủ nhật, ngày 28 tháng 4 năm 2019, để bầu ra Quốc hội Tây Ban Nha thứ 13 của Vương quốc Tây Ban Nha. Tất