✨Ctesiphon

Ctesiphon

Ctesiphon ( Tīsfūn; ; , ; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭲𐭩𐭮𐭯𐭥𐭭 tyspwn hay tysfwn, Hán-Việt: Tích Phong) là thủ đô của Đế quốc Parthia và Đế quốc Sassanid. Đó là một trong những thành phố lớn nhất vùng Lưỡng Hà cuối thời cổ đại. Những tàn tích của thành phố nằm trên bờ phía đông sông Tigris, bên kia sông là thành phố Hy Lạp Seleucia. Hiện nay phần còn lại của thành phố nằm ở tỉnh Baghdad, Iraq, khoảng 35 km về phía nam của thành phố Baghdad. Ctesiphon được xem là thành phố lớn nhất thế giới vào năm 570 cho đến khi bị quân Hồi chiếm năm 637.

Tên gọi

nhỏ|phải|Bản đồ vị trí Ctesiphon của nhà Sassanid Tên ' lấy từ tiếng Hy Lạp cổ đại ' () là một kiểu Hy Lạp hóa của tên địa phương đã được dựng lại là Tosfōn hoặc Tosbōn. Trong sử liệu của Iran vào thời kỳ Sassanid đã được chứng nhận trong tiếng Parthia bằng Chữ Mani 𐫤𐫏𐫘𐫛𐫇𐫗 , mà tiếng Sassanid gọi là Trung Ba Tư và trong tiếng Sogdi của Kitô giáo là Pahlavi tyspwn, tiếp tục trong tiếng Tân Ba Tư gọi là تيسفون (tysfwn). Nguồn sử liệu của phái Cảnh giáo ở Syria nhắc đến nó như là ' () hay ' (), và trong các văn bản tiếng Ả Rập thời Trung Cổ tên thường gọi là طيسفون (Ṭaysafūn) hoặc قطيسفون (Qaṭaysfūn) trong tiếng Ả Rập hiện nay là al-Mada'in (المدائن). "Theo Yāqūt [...], dẫn lời Hamza, cái tên ban đầu là Ṭūsfūn hoặc Tūsfūn, được Ả Rập hóa như là Ṭaysafūn". Tên tiếng Armenia của thành phố là Tizbon (Տիզբոն). Ctesiphon được nhắc đến lần đầu tiên là trong Sách Ezra của Kinh Cựu Ước dưới tên gọi Kasfia/Casphia (từ phát sinh của tên dân tộc, Cas, và có cùng chung nguồn gốc của Caspian và Qazvin).

Vị trí

Ctesiphon nằm ở Al-Mada'in, cách 20 dặm (32 km) về phía đông nam của thành phố nay là thủ đô Bagdad của Iraq, dọc theo sông Tigris. Ctesiphon có diện tích khoảng 30 km vuông (bằng 13,7 km vuông của thành Roma vào thế kỷ 4). Chỉ phần còn lại có thể nhìn thấy là mái vòm lớn Taq-i Kisra hoặc Tagh-e Kasra (nghĩa đen: mái vòm của Khosrau) giờ nằm ở thị trấn Iraq Salman Pak.

Lịch sử

nhỏ|Tàn tích của Ctesiphon được mô tả trên một con tem bưu chính năm 1923 của Iraq Tàn tích cung điện Ctesiphon năm 1864 nhỏ|Ctesiphon vào năm 1824 Ctesiphon theo lời Strabo đã đóng vai trò quan trọng trong Đế quốc Parthia vào thế kỷ 1 trước Công nguyên và là chỗ dựa của chính phủ đối với hầu hết các nhà lãnh đạo của đế chế. Thành phố này nằm gần Seleucia, thủ đô của người Hy Lạp. Do tầm quan trọng của nó, mà Ctesiphon trở thành một mục tiêu quân sự lớn đối với các nhà lãnh đạo của Đế quốc La Mã trong cuộc chiến tranh phía đông của họ. Thành phố bị người La Mã chiếm đến năm lần trong lịch sử và ba lần trong cùng thế kỷ 2. Hoàng đế Trajan đã chiếm Ctesiphon vào năm 116, nhưng người kế vị ông, Hadrian đã quyết định sẵn sàng trả lại Ctesiphon vào năm 117 như là một phần của thỏa thuận hòa bình. Đại tướng La Mã Avidius Cassius đã chiếm Ctesiphon vào năm 164 trong một cuộc chiến tranh Parthia khác, nhưng đã bỏ rơi thành phố này khi hòa bình được vãn hồi. Năm 197, Hoàng đế Septimius Severus đã cướp phá Ctesiphon và bắt đi hàng ngàn cư dân của thành phố đem bán làm nô lệ.

Vào cuối thế kỷ thứ 3, sau khi người Parthia đã bị thay thế bởi nhà Sassanid, thành phố một lần nữa đã trở thành một nguồn xung đột với Roma. Năm 283, Hoàng đế Carus đã đích thân cầm quân cướp phá thành phố mà không có giao tranh trong suốt thời kỳ biến động trong nước. Năm 295, Hoàng đế Galerius đã bị đánh bại bên ngoài thành phố. Tuy nhiên, ông trở lại một năm sau đó với một sự trả thù và giành được một chiến thắng kết thúc việc người La Mã chiếm giữ thành phố lần thứ năm và cuối cùng vào năm 299. Ông trả lại nó cho vua Ba Tư Narses để đổi lấy vùng Armenia và phía tây Lưỡng Hà.

Sau khi chiếm được Antioch vào năm 541, Khosrau I đã tiến hành xây dựng một thành phố mới gần Ctesiphon cho những cư dân bị ông bắt được. Ông đã gọi thành phố mới này là Weh Antiok Khusrau hoặc nghĩa đen, "tốt hơn so với Antioch mà Khosrau xây dựng nên". Cư dân địa phương đã gọi thành phố mới này là Rumagan, có nghĩa là "thành phố của người Hy Lạp" và người Ả Rập gọi là thành phố al-Rumiyya. Cùng với Weh Antiok, Khosrau còn cho xây dựng một vài thành phố có tường thành bao bọc. Khosrau I còn trục xuất 292.000 dân cư, nô lệ, và các sắc dân bị chinh phục tới thành phố mới của Ctesiphon vào năm 542.

Hoàng đế Julianus đã bị giết sau một trận chiến bên ngoài dãy tường thành của thành phố vào năm 363 trong cuộc chiến chống lại Shapur II. Cuối cùng vào năm 627, Hoàng đế Đông La Mã Heraclius đã mang quân bao vây thành phố, thủ đô của đế chế Sassanid, và chỉ rút lui khi sau khi người Ba Tư chấp nhận đàm phán lời cầu hòa của mình.

Ctesiphon ít lâu sau rơi vào tay người Hồi giáo trong cuộc chinh phục Ba Tư của người Hồi vào năm 637 dưới sự chỉ huy quân sự của Sa'ad ibn Abi Waqqas trong thời kỳ cai trị của Hồi vương Umar. Tuy nhiên, dân chúng nhìn chung không bị tổn hại nhưng các cung điện và thành tựu của họ đã bị thiêu rụi. Mặc dù vậy, số phận chính trị và kinh tế đã dời sang nơi khác, thành phố mau chóng rơi vào sự suy thoái, đặc biệt là sau khi thành lập thủ đô Abbasid tại Bagdad vào thế kỷ 8, đã biến nó sớm trở thành một thị trấn hoang tàn không có người ở. Ctesiphon được cho là cơ sở cho thành phố Isbanir trong truyện Nghìn lẻ một đêm.

Những di tích của Ctesiphon còn là nơi diễn ra một trận đánh lớn trong Chiến tranh thế giới thứ nhất vào tháng 11 năm 1915. Quân Thổ-Ottoman đã đánh bại quân Anh đang cố gắng tiến chiếm Bagdad, và đuổi họ trở lại khoảng 40 dặm (64 km) trước khi bao vây người Anh ở Kut và bức hàng nguyên 1 sư đoàn Anh-Ấn.

Khảo cổ

Một nhóm của Hội Nghiên cứu phương Đông Đức và Đại học Pennsylvania do Oscar Reuther dẫn đầu đã tiến hành khai quật ở Ctesiphon vào năm 1928-1929 và 1931-1932, chủ yếu là ở Qasr bint al-Qadi trên phần phía tây của di chỉ khảo cổ.

Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, một nhóm nghiên cứu người Ý tại Đại học Turin dưới sự dẫn đầu của Antonio Invernizzi và Giorgio Gullini đã tiến hành công việc tại di chỉ khảo cổ, chủ yếu là làm công tác phục dựng tại cung điện của vua Khosrau II. Năm 2013, chính phủ Iraq đã ký hợp đồng để khôi phục lại Cổng Ctesiphon như một địa điểm thu hút khách du lịch.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ctesiphon** ( _Tīsfūn_; ; , ; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭲𐭩𐭮𐭯𐭥𐭭 _tyspwn_ hay _tysfwn_, Hán-Việt: _Tích Phong_) là thủ đô của Đế quốc Parthia và Đế quốc Sassanid. Đó là một trong những thành
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Khosrau II**, hay **Khosrow II**, **Chosroes II** hoặc **Xosrov II** tên hiệu của ông là _Apavez_, "**Người Chiến Thắng**" - (tiếng Trung Ba Tư: 𐭧𐭥𐭮𐭫𐭥𐭣𐭩 Husrō (y); còn được gọi là _Khusraw Parvez_, tiếng Tân
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Yazdegerd I** (cũng được viết là **Yazdgerd** và **Yazdgird**; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭩𐭦𐭣𐭪𐭥𐭲𐭩) là Vua của các vua của Đế quốc Sasan (shahanshah) còn được gọi là Đế chế Tân Ba Tư, ông
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Farrukh Hormizd** hoặc **Farrokh Hormizd** (tiếng Ba Tư: فرخهرمز), là một spahbed ở miền bắc Ba Tư, ông là một hoàng tử của Atropatene Sau đó, ông đã gây ra sự tranh giành quyền lực
**Shahrbaraz**, còn được gọi là **Shahrvaraz** (tiếng Ba Tư: شهربراز, tiếng trung Ba Tư: 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰 Šahrwarāz, qua đời ngày 17 tháng 6 năm 629), là vua của đế chế Sassanid từ ngày 27 tháng 4
**Demosthenes** (; ; ; 384 TCN – 12 tháng 10 năm 322 TCN) là một chính khách và nhà hùng biện người Athens thời Hy Lạp cổ đại. Các bài hùng biện của ông đã trở
**Bistam** hoặc **Vistahm** (tiếng Ba Tư: بیستام), là một vị vua Parthia xuất thân từ gia tộc Ispahbudhan, và là người cậu của vua Sassanid, Khosrau II (trị vì từ năm 591-628). Vistahm đã giúp
**Yazdegerd III** (624-651), cũng gọi là **Yazdgerd** hay **Yazdiger** (tiếng Trung Ba Tư: 𐭩𐭦𐭣𐭪𐭥𐭲𐭩 Yazdākird, có nghĩa là "được tạo nên bởi Chúa"; tiếng Ba Tư mới: یزدگرد) là hoàng đế thứ 38 và cũng
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus** hay còn gọi là **Trajan** (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Vardanes I của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 40-45SCN. Ông kế vị người cha Artabanus II của ông, nhưng đã phải liên tục chiến đấu chống lại Gotarzes II, một đối
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Carus** (; 224 – 283), là Hoàng đế La Mã từ năm 282 đến 283. Trong thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình, Carus đã thành công khi tiến hành thảo phạt các bộ
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Kavadh II** (tiếng Ba Tư: قباد Qobād hoặc Qabād), còn được gọi là **Sheroya** hoặc **Shiruya** (Siroes, Shiroye), là vua của đế quốc Sassanid, ông chỉ trị vì vài tháng trong năm 628. Ông là
phải|Bản đồ Iraq **Bagdad** (tiếng Ả Rập:بغداد Baġdād) hay **Baghdad** trong tiếng Anh (phiên âm Tiếng Việt thường đọc là "Bát-đa") là thủ đô của đất nước Iraq và là thủ phủ của tỉnh Bagdad.
**Heraclius** (; 11 tháng 2 năm 641) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 610 đến 641. Con đường lên ngôi của Heraclius bắt đầu từ năm 608, khi ông cùng với cha mình,
phải|Cảnh Khosrau I đi săn **Khosrau I** (hay **Chosroes I**, **Khosrow I**, cũng được biết tới như **Anushiravan Công bằng**) là người con yêu quý và người kế vị của Kavadh I (488-531), và là
**Tigris** (Tiếng Việt:**Ti-gơ-rơ** hoặc **Tigrơ**, được phiên âm từ tên tiếng Pháp: **Tigre**) là con sông phía đông thuộc hai con sông lớn phân định nền văn minh Lưỡng Hà, cùng với sông Euphrates. Tigris
**Palmyra** (tiếng Ả rập: تدمر Tadmor) là một thành phố quan trọng vào thời xa xưa của Syria, đặt tại một ốc đảo nằm ở phía đông bắc Damascus cách Damascus khoảng 215 km, và nằm
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Shapur I** là vị hoàng đế Sassanid thứ nhì của Đế quốc Ba Tư thứ nhì. Sử sách cho rằng ông đã cai trị đế quốc này trong khoảng thời gian từ năm 215 đến
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Ardashir I** (tiếng Ba Tư trung đại:75x75px, tiếng Ba Tư mới: اردشیر بابکان, _Ardashir-e Bābakān_) là người sáng lập ra triều đại Sassanid, là người trị vì của Istakhr (206-241), sau đó là Ba Tư
**Osroes I của Parthia **cai trị đế chế Parthia từ khoảng năm 109-129. Ông đã kế vị người anh trai của mình, vua Pacorus II. Trong suốt triều đại của mình, ông đấu tranh chống
**Vologases V của Parthia** là vua của Đế chế Parthia từ 191-208. ## Tiểu sử Ông là con trai của vua Vologases I của Armenia, một thành viên của triều đại Arsaces của Armenia. Tuy
**Vologases IV của Parthia** là vua của Đế chế Parthia từ 147-191. Ông là con trai của Mithridates IV của Parthia (129-140), ông đã thống nhất lại đế chế Parthia mà bị chia rẽ giữa
**Pacorus II của Parthia** ) cai trị Đế chế Parthia từ khoảng năm 78-105. ## Dòng dõi Pacorus II là một người con trai của Vonones II với một người vợ lẽ gốc Hy Lạp,
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Seleucia** (tiếng Hy Lạp: Σελεύκεια), còn được gọi là Seleucia bên bờ sông Tigris, là một trong những thành phố lớn trên thế giới thời Hy Lạp và La Mã. Nó nằm ở Lưỡng Hà,
nhỏ|phải|The Savaria Legio XV Apollinaris (Szombathely, Hungary) **Legio Quinta decima Apollinaris** (quân đoàn thứ mười lăm Apollonia) là một quân đoàn La Mã. Nó đã thành lập bởi Octavian trong năm 41/40 trước Công nguyên.
**Legio undecima Claudia** (Quân đoàn Claudia thứ mười một) là một quân đoàn La Mã. XI Claudia có thể đã bắt đầu từ hai quân đoàn (một quân đoàn khác là quân đoàn thứ mười
**Cuộc vây hãm Kut** là một trận vây hãm do Đế quốc Ottoman khởi đầu trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, diễn ra trong suốt 147 ngày từ năm 1915 cho đến năm
**Giáo hội Phương Đông Assyria** tên chính thức là **Giáo hội Phương Đông Thánh thiện Tông truyền Công giáo Assyria** (tiếng Syriac: ܥܕܬܐ ܩܕܝܫܬܐ ܘܫܠܝܚܝܬܐ ܩܬܘܠܝܩܝ ܕܡܕܢܚܐ ܕܐܬܘܪܝܐ ʻIttā Qaddishtā w-Shlikhāitā Qattoliqi d-Madnĕkhā d-Āturāyē) là
nhỏ|Odaenathus **Lucius Septimius Odaenathus**, **Odenathus** or **Odenatus** (tiếng Aram: ܐܕܝܢܬ / ; Greek: / _Hodainathos_; / ALA-LC: _Udhaynah_) (? - 267), tên Latinh hóa theo kiểu Syria **Odainath**, là một vị vua xứ Palmyra, Syria
**Đế quốc Palmyra** (260 - 273) là một quốc gia được tách khỏi Đế quốc La Mã trong cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Quốc gia này bao gồm các tỉnh La Mã
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
**Marcus Aurelius Severus Alexander Augustus** thường được gọi là **Alexander Severus** hay **Severus Alexander** (1 tháng 10 năm 208 - 21 hoặc 22 tháng 3 năm 235) là Hoàng đế La Mã từ năm 222
**Legio quarta decima Gemina** (**Quân đoàn đôi thứ mười bốn**) là một quân đoàn của đế quốc La Mã, nó được Julius Caesar thành lập vào năm 57 trước Công nguyên. Tên riêng _Gemina_ của