Shapur I là vị hoàng đế Sassanid thứ nhì của Đế quốc Ba Tư thứ nhì. Sử sách cho rằng ông đã cai trị đế quốc này trong khoảng thời gian từ năm 215 đến 272, nhưng cũng có khả năng là ông cùng cha trị vì cho đến khi cha ông chết năm 241.
Kế tục sự nghiệp của cha, Shapur tiếp tục gây chiến với Đế quốc La Mã và đánh bại các hoàng đế Gordian III (238-244), Philip Ả rập (244-249) và Valerian (253-260).
Người ta biết đến ông sau khi Shapur I đánh bại hoàng đế La Mã Valerian tại trận Edessa nổi danh năm 260. Trong trận đánh này, Valerian đã phải quỳ xuống, xin ân xá và bị giam tù tại Ba Tư. Tại đất nước của mình, Shapur cũng cho xây nhiều công trình lớn như hoàng cung vĩ đại tại thủ đô Ctesiphon mà ngày nay còn tồn tại. Nhưng, từ năm 260 đến 263, ông bị mất một số lãnh thổ mới chinh phạt vào tay Odaenathus, đồng minh của La Mã.
Shapur I đã thực hiện một số kế hoạch phát triển. Để giải quyết vấn đề dân di cư từ những lãnh thổ của Đế quốc La Mã, ông thành lập và cho xây dựng nhiều thành phố. Trong số dân di cư này có cả những người Cơ Đốc giáo, họ có thể sinh hoạt tôn giáo theo luật của Đế quốc Sassanid. Trong số các thành phố của ông có hai thành Bishapur và Nishapur là được đặt theo tên ông. Shapur rất coi trọng một tôn giáo cổ của Ba Tư mang tên đạo Mani. Ông bảo vệ đạo này và gửi nhiều nhà truyền giáo qua nước ngoài. Ông còn kết bạn với Shmuel, một giáo sĩ Do Thái ở Babylon. Tình bạn này có lợi cho cộng đồng Do Thái và nó đã giúp việc trì hoãn các đạo luật chống lại người Do Thái.
Nguồn
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Shapur I** là vị hoàng đế Sassanid thứ nhì của Đế quốc Ba Tư thứ nhì. Sử sách cho rằng ông đã cai trị đế quốc này trong khoảng thời gian từ năm 215 đến
**Shapur-i Shahrvaraz** (Tiếng trung Ba Tư: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩𐭩 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰), còn được gọi là **Shapur V**, là một kẻ tiếm vị của nhà Sassanid, ông đã trị vì trong một thời gian ngắn cho đến khi ông
**Shapur II** (tiếng Ba Tư trung đại: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩 **Šāhpuhr**), hay **Shapur II Đại đế** (tiếng Ba Tư: شاپور دوم بزرگ), là vị vua thứ mười của Đế quốc Sassanid. Ông là vị vua trị vì
**Ardashir I** (tiếng Ba Tư trung đại:75x75px, tiếng Ba Tư mới: اردشیر بابکان, _Ardashir-e Bābakān_) là người sáng lập ra triều đại Sassanid, là người trị vì của Istakhr (206-241), sau đó là Ba Tư
**Yazdegerd I** (cũng được viết là **Yazdgerd** và **Yazdgird**; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭩𐭦𐭣𐭪𐭥𐭲𐭩) là Vua của các vua của Đế quốc Sasan (shahanshah) còn được gọi là Đế chế Tân Ba Tư, ông
nhỏ| Bức tranh _Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tuẫn đạo Cơ Đốc giáo_ do [[Jean-Léon Gérôme vẽ vào năm 1883.]] **Đế quốc La Mã** **đàn áp Cơ Đốc giáo** (chữ Anh: _Persecution
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Gallienus** (; 218 – 268) là Hoàng đế La Mã với cha mình Valerianus từ năm 253 đến 260 và một mình từ năm 260 đến 268. Ông đã cai trị trong cuộc khủng hoảng
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
Dưới đây là danh sách quân chủ của nhà Sasan, những người đã lật đổ sự cai trị của đế quốc tiền nhiệm Parthia tại trận Hormozdgan năm 224. Đế quốc thời kỳ đỉnh cao
**Azarmidokht** (tiếng Trung Ba Tư: Āzarmīgdukht, tiếng Ba Tư: آزرمیدخت) là nữ hoàng nhà Sassanid của Ba Tư trong giai đoạn 630-631, bà còn là con gái của vua Khosrau II. Bà đã cai trị
**Trebonianus Gallus** (; 206 – 253), là Hoàng đế La Mã từ năm 251 đến 253, đồng cai trị cùng con mình là Volusianus. ## Thiếu thời Tượng bán thân của Trebonianus Gallus Gallus sinh
**Nishapur** hay **Nishabur** (,, La Mã hoá là **Nīshāpūr**, **Nīshābūr**, và **Neyshābūr** từ tiếng Ba Tư trung cổ: "Thành phố mới của Shapur" hoặc "Perfect built of Shapur"), là một thành phố thuộc tỉnh Khorasan,
**Naqsh-e Rustam** ( ) là một khu đại mộ địa cổ nằm cách Persepolis 12 km về phía tây bắc, thuộc tỉnh Fars, Iran. Tại Naghsh-e Rostam, có bốn ngôi mộ và một tòa nhà từ
**Publius Licinius Valerianus** (200-sau 260), tiếng Anh hiểu là **Valerian** là Hoàng đế La Mã từ năm 253 đến năm 260 cùng với Gallienus. Valerianus có xuất thân từ một gia đình quý tộc. Ông
**Borandukht**, (còn được phát âm là **Boran**, **Poran**, và **Purandokht**, tiếng Ba Tư: بوراندخت), là con gái của vua Sassanid Khosrau II (từ năm 590-628). Bà là một trong hai người phụ nữ ngồi trên
**Shahrbaraz**, còn được gọi là **Shahrvaraz** (tiếng Ba Tư: شهربراز, tiếng trung Ba Tư: 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰 Šahrwarāz, qua đời ngày 17 tháng 6 năm 629), là vua của đế chế Sassanid từ ngày 27 tháng 4
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Vương triều Sasan** (còn được biết đến dưới tên gọi **Sassanid** hoặc **Nhà Sasan**) là một vương triều đã sáng lập nên Đế quốc Sasan của Iran, trị vì đế quốc từ năm 224 cho
**Khosrau II**, hay **Khosrow II**, **Chosroes II** hoặc **Xosrov II** tên hiệu của ông là _Apavez_, "**Người Chiến Thắng**" - (tiếng Trung Ba Tư: 𐭧𐭥𐭮𐭫𐭥𐭣𐭩 Husrō (y); còn được gọi là _Khusraw Parvez_, tiếng Tân
**Gordianus III** (; 225 – 244), là Hoàng đế La Mã từ năm 238 đến 244. Ở tuổi 13, cậu trở thành vị hoàng đế La Mã hợp pháp trẻ nhất cầm quyền xuyên suốt
**Bagram** (tiếng Ba Tư: بگرام Bagram), được thành lập với tên _Alexandria Caucasus_ và được biết đến trong thời Trung cổ như Kapisa, là một thị trấn nhỏ và thủ phủ ở huyện Bagramn trong
nhỏ|Odaenathus **Lucius Septimius Odaenathus**, **Odenathus** or **Odenatus** (tiếng Aram: ܐܕܝܢܬ / ; Greek: / _Hodainathos_; / ALA-LC: _Udhaynah_) (? - 267), tên Latinh hóa theo kiểu Syria **Odainath**, là một vị vua xứ Palmyra, Syria
Người **Machelones** () (Machelônes, Machelonoi; ) là một bộ lạc người Colchis nằm xa về phía nam của Phasis (ngày nay là sông Rioni, miền tây Georgia). Họ được nhắc đến một vài lần trong
**Farrukh Hormizd** hoặc **Farrokh Hormizd** (tiếng Ba Tư: فرخهرمز), là một spahbed ở miền bắc Ba Tư, ông là một hoàng tử của Atropatene Sau đó, ông đã gây ra sự tranh giành quyền lực
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
nhỏ|Đồng Dinar của hoàng đế Shapur I Xã hội Iran vào thời kỳ Sasan là một xã hội nông nghiệp và do đó, kinh tế Sasan phụ thuộc nhiều vào chăn nuôi và trồng trọt.
**Nhà Mihrān** hay **Mehrān** là một gia đình quý tộc Iran (_šahrdārān_), là một bảy đại gia tộc của Đế quốc Sassanid Ba Tư và tự nhận là hậu duệ của nhà Arsaces trước đó.
**Afghan** (Tiếng Pashto/Ba Tư: ) dùng để chỉ người nào đó hoặc thứ gì đó đến từ Afghanistan, cụ thể là công dân của quốc gia này. Nhà nước tiền quốc gia, tên dân tộc
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
**Ingenuus** là một chỉ huy quân đội La Mã và đại diện triều đình (Legatus) ở Pannonia, về sau trở thành kẻ soán ngôi vị của Hoàng đế Gallienus khi ông khởi binh nổi loạn
**Aemilianus** (; khoảng 207/213 – 253), là Hoàng đế La Mã được 3 tháng vào năm 253. Aemilianus là chỉ huy quân đội La Mã ở Moesia, nhờ giành một chiến thắng quan trọng chống
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I
**Julianus** (,; 331/332 – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
nhỏ|Bức vẽ từ thế kỉ XV mô tả cảnh ba người đàn ông bị hành quyết bằng cách xẻ đôi. **Xẻ đôi người** là một hình thức xử tử được áp dụng tại nhiều nơi
Trong lịch sử, đã có những vị đế vương vì có công với việc thay đổi Quốc gia nên họ được gọi là "Vĩ đại". Ở Ba Tư, danh từ này được sử dụng lần
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Ctesiphon** ( _Tīsfūn_; ; , ; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭲𐭩𐭮𐭯𐭥𐭭 _tyspwn_ hay _tysfwn_, Hán-Việt: _Tích Phong_) là thủ đô của Đế quốc Parthia và Đế quốc Sassanid. Đó là một trong những thành
**Nasser al-Din Shah Qajar**, (16 tháng 6 năm 1831-1 tháng 5 năm 1896) là vị vua thứ tư của nhà Qajar của Ba Tư, trị vì từ 17 tháng 9 năm 1848 cho đến 1
**Valens **(Latin: Augustus Valens Flavius Julius; 328-9 tháng 8 năm 378) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 364-378. Ông đã được trao cho nửa phía đông của đế quốc bởi Valentinianus I, anh
nhỏ|Di tích lâu đài [[Tachara của Darius I; xây vào khoảng thế kỷ 5 TCN]] **Persepolis** (tiếng Ba Tư cổ: 𐎱 𐎠 𐎼 𐎿 Pārsa, tiếng Ba Tư hiện đại: تخت جمشید / پارسه, _Takht-e
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)