Vương triều Sasan (còn được biết đến dưới tên gọi Sassanid hoặc Nhà Sasan) là một vương triều đã sáng lập nên Đế quốc Sasan của Iran, trị vì đế quốc từ năm 224 cho tới 651 sau Công Nguyên. Bắt đầu với Ardashir I, người đã đặt tên cho vương triều nhằm vinh danh tổ tiên của mình, Sasan.
Shahanshah là nguyên thủ duy nhất, người đứng đầu quốc gia và đứng đầu chính phủ của đế chế. Đôi khi, quyền lực thực tế được chuyển sang cho các quan lại khác, đặc biệt là spahbed. Khi đế chế bị xâm lược bởi đế chế Hồi giáo caliphate vào năm 651, các thành viên trong gia đình hoàng gia đã chạy loạn sang Trung Quốc sau khi Yazdegerd III qua đời, nơi mà sau đó họ được chấp nhận làm thành viên của triều đình hoàng gia bởi Hoàng đế Cao Tông của nhà Đường. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để xâm chiếm Ba Tư Hồi giáo với sự hỗ trợ từ Trung Quốc, nhánh Sasanid này vẫn ở lại Trung Quốc vô thời hạn. Narsieh, cháu trai của Yazdegerd và thành viên Sasanid cuối cùng được ghi nhận tại Trung Quốc, đã nhận họ Lý (李) để tôn vinh gia đình hoàng tộc Trung Quốc.
Các hoàng gia Sasan tuyên bố có nguồn gốc từ dòng dõi Kayanid, một triều đại Ba Tư huyền thoại được đề cập trong Avesta, các văn kiện thánh của Hoả giáo, thường được cho là dựa trên thời kỳ cuối của triều đại Achaemenid. Theo đó, Dara II, vị vua Kayanid mà Sasan được cho là lấy làm nguồn gốc, có lẽ đã dựa trên Darius III, vị vua cuối cùng của nhà Archaemenid mà vương quốc của ông đã bị Alexander Đại Đế chinh phục, tương tự như Dara. Một phiên bản khác của câu chuyện lại tồn tại trong Kar-Namag i Ardashir i Pabagan, trong đó Ardashir được giới thiệu như là con trai của Sasan, một hậu duệ của Darius III, và một người con gái vô danh của Pabag, một lãnh chúa phong kiến ở Persis. Tuy nhiên, những phiên bản mâu thuẫn này đã khiến một số nhà sử học, như Touraj Daryaee, tin rằng Ardashir chỉ đơn giản là tuyên bố có nguồn gốc từ bất cứ ai thuận tiện nhất đối với ông. Việc liên hệ Ardashir với các triều đại Kayani huyền thoại qua biệt danh Kay, cùng với việc liên hệ mình với Sasan, một vị thần bảo hộ, và cả với Dara, có thể là sự kết hợp của Darius I và Darius III dưới triều đại Achaemenid, gợi ý về một nỗ lực được cho là để tuyên bố cội nguồn từ dòng dõi Achaemenid. Hơn nữa, cái tên "Sasan" được cho là được tạo thành từ biểu thức chữ viết "Ssn" trên các đồ vật và tư liệu khác, ngụ ý rằng Sasan dựa trên một vị thần Hoả giáo, mặc dù ông không được đề cập đến trong Avesta hoặc bất kỳ văn kiện Iran nào khác. Martin Schwartz mới đây đã chỉ ra rằng, vị thần được thể hiện trên các đồ gốm không hề liên quan đến "Sasan", mà để thể hiện "Ssn", một nữ thần Semitic cổ, được thờ phụng tại Ugarit trong thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Từ "Sasa" được viết trên những đồng tiền được tìm thấy tại Taxila; nó có thể liên quan đến "Sasan", vì các biểu tượng trên đồng tiền cũng tương tự như đồng tiền của Shapur I, con trai của Ardashir. Shahnameh của Ferdowsi ghi nhận rằng, nguồn gốc Đông phương của Sasan có thể ngụ ý rằng gia đình ông có thể đến từ phương Đông, dường như là Ấn Độ. Với tất cả những điều này trong tâm trí, có thể cho rằng Ardashir đã tuyên bố nguồn gốc thần thánh của mình và người Sasan có thể đã nâng cấp vị trí của Sasan lên thành một vị thần.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương triều Sasan** (còn được biết đến dưới tên gọi **Sassanid** hoặc **Nhà Sasan**) là một vương triều đã sáng lập nên Đế quốc Sasan của Iran, trị vì đế quốc từ năm 224 cho
Dưới đây là danh sách quân chủ của nhà Sasan, những người đã lật đổ sự cai trị của đế quốc tiền nhiệm Parthia tại trận Hormozdgan năm 224. Đế quốc thời kỳ đỉnh cao
**Đường Sasan** là hạ tầng vật chất quan trọng cho việc duy trì và phát triển Đế quốc Sasan. Rất nhiều hệ thống đường Sasan vẫn còn chưa được biết đến do có ít các
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Bistam** hoặc **Vistahm** (tiếng Ba Tư: بیستام), là một vị vua Parthia xuất thân từ gia tộc Ispahbudhan, và là người cậu của vua Sassanid, Khosrau II (trị vì từ năm 591-628). Vistahm đã giúp
**Yazdegerd III** (624-651), cũng gọi là **Yazdgerd** hay **Yazdiger** (tiếng Trung Ba Tư: 𐭩𐭦𐭣𐭪𐭥𐭲𐭩 Yazdākird, có nghĩa là "được tạo nên bởi Chúa"; tiếng Ba Tư mới: یزدگرد) là hoàng đế thứ 38 và cũng
**Tahmasp I** (3 tháng 3 năm 1514 – 1576) là vị shah (hoàng đế) thứ hai của Ba Tư thuộc vương triều Safavid. Triều đại ông cho thấy nhiều cuộc tấn công của các lân
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Nhà thờ chính tòa Zvartnots** ( (cổ điển); (cải cách); nghĩa đen 'nhà thờ chính tòa các thiên thần thiên đường') là một nhà thờ Armenia thế kỷ 7 được xây dựng theo lệnh của
thumb **Nhà Ispahbudhan** hay **Nhà Aspahbadh** là một trong bảy thị tộc Parthia của Đế quốc Sassanid. Giống như gia tộc Sasan, họ cũng tự nhận mình là dõng dõi của nhà Achaemenes. Họ cũng
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Khosrau II**, hay **Khosrow II**, **Chosroes II** hoặc **Xosrov II** tên hiệu của ông là _Apavez_, "**Người Chiến Thắng**" - (tiếng Trung Ba Tư: 𐭧𐭥𐭮𐭫𐭥𐭣𐭩 Husrō (y); còn được gọi là _Khusraw Parvez_, tiếng Tân
**Farrukh Hormizd** hoặc **Farrokh Hormizd** (tiếng Ba Tư: فرخهرمز), là một spahbed ở miền bắc Ba Tư, ông là một hoàng tử của Atropatene Sau đó, ông đã gây ra sự tranh giành quyền lực
**Shahrbaraz**, còn được gọi là **Shahrvaraz** (tiếng Ba Tư: شهربراز, tiếng trung Ba Tư: 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰 Šahrwarāz, qua đời ngày 17 tháng 6 năm 629), là vua của đế chế Sassanid từ ngày 27 tháng 4
**Adhur Narseh** (tiếng Ba Tư: آذرنرسه), là con trai của vua Hormizd II và là vua thứ chín của Nhà Sassanid. Sau khi cha ông qua đời, các nhà quý tộc và giáo sĩ Hỏa
**Borandukht**, (còn được phát âm là **Boran**, **Poran**, và **Purandokht**, tiếng Ba Tư: بوراندخت), là con gái của vua Sassanid Khosrau II (từ năm 590-628). Bà là một trong hai người phụ nữ ngồi trên
**Azarmidokht** (tiếng Trung Ba Tư: Āzarmīgdukht, tiếng Ba Tư: آزرمیدخت) là nữ hoàng nhà Sassanid của Ba Tư trong giai đoạn 630-631, bà còn là con gái của vua Khosrau II. Bà đã cai trị
**Shapur-i Shahrvaraz** (Tiếng trung Ba Tư: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩𐭩 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰), còn được gọi là **Shapur V**, là một kẻ tiếm vị của nhà Sassanid, ông đã trị vì trong một thời gian ngắn cho đến khi ông
phải|Cảnh Khosrau I đi săn **Khosrau I** (hay **Chosroes I**, **Khosrow I**, cũng được biết tới như **Anushiravan Công bằng**) là người con yêu quý và người kế vị của Kavadh I (488-531), và là
phải|nhỏ|Peroz I **Peroz I** là một vị vua của nhà Sassanid nước Ba Tư, trị vì từ năm 457 đến 484. Peroz vốn là con trai trưởng của Yazdegerd II (438-457). Sau khi Yazdegerd II
**Hormizd VI** là hoàng đế thứ 28 của nhà Sassanid Ba Tư, là một trong những viên quan trở thành hoàng đế Ba Tư sau khi hoàng đế Khosrau II (590-628) bị ám sát năm
**Shapur III** là vua nhà Sassanid nước Ba Tư đã trị vì từ năm 383 tới 388. Ông kế vị anh trai là Ardashir II vào năm 383. Shapur III là một vị vua nhu
nhỏ|249x249px|Đồng tiền mang hình Hormizd II **Hormizd II** () là hoàng đế thứ 8 của Vương triều Sassanid thuộc Đế quốc Ba Tư, trị vì 7 năm 5 tháng, từ 302 đến 309. Ông là
**Shapur I** là vị hoàng đế Sassanid thứ nhì của Đế quốc Ba Tư thứ nhì. Sử sách cho rằng ông đã cai trị đế quốc này trong khoảng thời gian từ năm 215 đến
**Shapur II** (tiếng Ba Tư trung đại: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩 **Šāhpuhr**), hay **Shapur II Đại đế** (tiếng Ba Tư: شاپور دوم بزرگ), là vị vua thứ mười của Đế quốc Sassanid. Ông là vị vua trị vì
**Ardashir I** (tiếng Ba Tư trung đại:75x75px, tiếng Ba Tư mới: اردشیر بابکان, _Ardashir-e Bābakān_) là người sáng lập ra triều đại Sassanid, là người trị vì của Istakhr (206-241), sau đó là Ba Tư
**Farrukhzad Khosrau V** là vua của đế chế Sassanid trong một thời gian ngắn từ tháng 3 năm 631 đến tháng 4 năm 631. Ông là con trai của vua Khosrau II. ## Tiểu sử
**Khosrau III** (629) là một vị vua Sassanid tự phong, ông đã cai trị vùng đất Khorasan trong một thời gian ngắn vào giai đoạn viên tướng nhà Mihran Shahrbaraz nắm quyền kiểm soát toàn
**Kavadh II** (tiếng Ba Tư: قباد Qobād hoặc Qabād), còn được gọi là **Sheroya** hoặc **Shiruya** (Siroes, Shiroye), là vua của đế quốc Sassanid, ông chỉ trị vì vài tháng trong năm 628. Ông là
**Ardashir III** (Tiếng Trung Ba Tư:Hình:ArdashirPahlaviName.png, tiếng tân Ba Tư: اردشیر سوم), (sinh khoảng năm 621-27 tháng 4 năm 629) là vua của đế chế Sassanid từ ngày 06 tháng 9 năm 628-27 tháng 4
**Bahram Chōbīn** (tiếng Tân Ba Tư: بهرام چوبین; tiếng Trung Ba Tư: **Wahrām Chōbēn**), còn có biệt danh là **Mehrbandak** (tiếng Trung Ba Tư: **Mihrewandak**), là một spahbed nổi tiếng (tướng lĩnh quân đội cấp
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
**Takht-e Soleymān** () là một địa điểm khảo cổ thời kỳ Sasan nằm ở tỉnh Tây Azerbaijan, Iran. Nó nằm giữa thành phố Urmia và Hamadan, rất gần Takab ngày nay, cách khoảng về phía
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Vương quốc Bagratuni** hay **Armenia thời nhà Bagratuni** (tiếng Armenia cổ: , chuyển tự _Bagratuneats Hayastan_) (các tên khác _Vương quốc Ani_, _Armenia Bagratuni_, _Vương quốc Shirak_) là một nhà nước phong kiến Armenia tồn
**Trận Carrhae** xảy ra gần thị trấn Carrhae năm 53 TCN, là một chiến thắng quyết định cho Spahbod (tướng) Surena của người Parthava trước quân xâm lược La Mã dưới sự chỉ huy của
nhỏ| Đầu đá này được cho là khắc họa chân dung một vị satrap của xứ Herakleia thuộc [[Nhà Achaemenes|Đế chế Achaemenes vùng Tiểu Á, cuối thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, có lẽ
**Triều đại Pahlavi** () là triều đại hoàng gia cuối cùng của Iran, cai trị gần 54 năm từ 1925 đến 1979. Vương triều được thành lập bởi Reza Shah Pahlavi, một người lính Mazanderani
**Hỏa giáo** hay **Bái hỏa giáo** (cũng còn được gọi là **Hiên giáo**, **Hỏa hiên giáo**, **Đạo Zoroast**, **Đạo Mazda hay Mazde**, **Hỏa yêu giáo**) là một tôn giáo Ba Tư và một trong những
**Tahmasp II** (sinh khoảng 1704 - mất 1740) là vị vua áp chót của vương triều Safavid xứ Ba Tư (Iran). Tahmasp là con trai của Soltan Hosein. Khi Hosein bị quân Afghanistan hạ bệ
**Bahram V** ( _Wahrām_, tiếng Ba Tư mới: _Bahrām_) là vị vua Sassanid thứ 14 của Ba Tư (421-438). Cũng được gọi là **Bahramgur** (gur nghĩa là lừa rừng, thú săn ưa thích của ông),
nhỏ|Cảnh Hozmind III đăng quang thành shah của Iran. **Hormizd III**, quốc vương Sassanid thứ 16 của Ba Tư, con của Yazdegerd II (438-457) và kế vị vua cha năm 457. ## Tiểu sử Hormizd
**Yazdegerd I** (cũng được viết là **Yazdgerd** và **Yazdgird**; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭩𐭦𐭣𐭪𐭥𐭲𐭩) là Vua của các vua của Đế quốc Sasan (shahanshah) còn được gọi là Đế chế Tân Ba Tư, ông
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**_Âm mưu và tình yêu_** (tiếng Hindi: साथ निभाना साथिया - Saath Nibhaana Saathiya) là bộ phim truyền hình dài tập Ấn Độ. Phần 1 được phát sóng trên Star Plus bắt đầu từ ngày
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Mazdak giáo** là một tôn giáo ở vùng Iran và lân cận, là một nhánh cải cách từ Hỏa giáo. Tôn giáo đã được coi là một trong những ví dụ đáng chú ý nhất