✨Shapur II

Shapur II

Shapur II (tiếng Ba Tư trung đại: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩 Šāhpuhr), hay Shapur II Đại đế (tiếng Ba Tư: شاپور دوم بزرگ), là vị vua thứ mười của Đế quốc Sassanid. Ông là vị vua trị vì lâu nhất của nhà Sasanid, trị vì từ 309 đến 379 và là con của Hormizd II. Dưới triều đại, Đế quốc Sassanid chứng kiến thời kỳ vàng son thứ nhất của nó kể từ triều đại Shapur I (241-272).

Đầu thời thơ ấu

Khi vua Hormizd II (302-309) qua đời, những người quyền quý Ba Tư giết con trưởng của ông, chọc mù mắt con thứ, bỏ tù con thứ ba (Hormizd, người về sau chạy trốn tới Đế quốc La Mã. Ngai vàng được dành riêng cho một đứa con tương lai của một người vợ Do Thái giáo của Hormizd II. Điều đó nói Shapur có thể trở thành ông vua duy nhất trong lịch sử đội vương miện ở tử cung, vương miện đã đặt trên bào thai của mẹ cậu. Đứa bé, tên Shapur, chính là vị vua đã ra đời; chính phủ được quản lý bởi mẹ cậu và những người quyền quý. Nhưng khi đến tuổi trưởng thành, Shapur đã trở thành một trong những vị hoàng đế vĩ đại nhất triều đại.

Chinh phạt

Đầu tiên, Shapur II kéo quân Ba Tư xuống phương Nam để giao chiến với Ả Rập. Quân đội của ông mặc dù không đông nhưng kỷ luật rất là tốt, và, Shapur và quân đội ông đã dành thắng lợi, bảo vệ an toàn cho lãnh thổ của Đế quốc Ba Tư hùng mạnh của ông. Sau đó, ông lại gây chiến với Đế quốc La Mã. Tuy nhiên, sau khi vây hãm Singara thì Shapur II phải ngừng tấn công do những cuộc đột kích dọc biên giới phía đông của dân du mục. Những cuộc tấn công này đã đe dọa Transoxiana, một vùng đất chiến lược để kiểm soát con đường tơ lụa. Hơn nữa, Shapur II không có đủ quân để bảo vệ những vùng đất mà ông vừa chiếm được. Thế nên, ông đã ký hòa ước với Hoàng đế La Mã Constantius II (353-361), hai bên đồng ý sẽ không xâm phạm lãnh thổ của nhau trong một khoàng thời gian.

Sau đó, Shapur II kéo quân về phía Đông, giao chiến với dân du mục tại Transoxiana. Ông đã chiến thắng kẻ thù, và thu phục các bộ lạc Trung Á, đưa các vùng đất của họ sáp nhập vào lãnh thổ của đế quốc Sassanid. Ông đã chiếm được Afghanistan, và cuộc chinh phạt hoàn tất. Nền văn hóa và nghệ thuật của Sassanid nhờ đó mà đã xâm nhập vào nước Turkistan, và lan rộng tới tận Trung Quốc.

Xong rồi, năm 359, Shapur II đã liên kết với vua của dân du mục Grumbates gây ra cuộc chiến tranh với La Mã lần thứ nhì. Lần này, nhờ có một lực lượng hùng mạnh, cũng như nhờ có sự trợ giúp của người du mục, Shapur đã giành được chiến thắng áp đảo. Sau khi cuộc chiến kết thúc, người La Mã đã phải nhường cho Sassanid tổng cộng là 5 tỉnh.

Khi Shapur II qua đời, đế quốc Sassanid trở nên hùng mạnh hơn bao giời hết. Các kẻ thù phía Đông đã bị dẹp còn Armenia thì phải thần phục đế chế.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Shapur II** (tiếng Ba Tư trung đại: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩 **Šāhpuhr**), hay **Shapur II Đại đế** (tiếng Ba Tư: شاپور دوم بزرگ), là vị vua thứ mười của Đế quốc Sassanid. Ông là vị vua trị vì
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius ​​Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I
nhỏ|249x249px|Đồng tiền mang hình Hormizd II **Hormizd II** () là hoàng đế thứ 8 của Vương triều Sassanid thuộc Đế quốc Ba Tư, trị vì 7 năm 5 tháng, từ 302 đến 309. Ông là
**Shapur-i Shahrvaraz** (Tiếng trung Ba Tư: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩𐭩 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰), còn được gọi là **Shapur V**, là một kẻ tiếm vị của nhà Sassanid, ông đã trị vì trong một thời gian ngắn cho đến khi ông
**Shapur III** là vua nhà Sassanid nước Ba Tư đã trị vì từ năm 383 tới 388. Ông kế vị anh trai là Ardashir II vào năm 383. Shapur III là một vị vua nhu
**Khosrau II**, hay **Khosrow II**, **Chosroes II** hoặc **Xosrov II** tên hiệu của ông là _Apavez_, "**Người Chiến Thắng**" - (tiếng Trung Ba Tư: 𐭧𐭥𐭮𐭫𐭥𐭣𐭩 Husrō (y); còn được gọi là _Khusraw Parvez_, tiếng Tân
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Yazdegerd I** (cũng được viết là **Yazdgerd** và **Yazdgird**; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭩𐭦𐭣𐭪𐭥𐭲𐭩) là Vua của các vua của Đế quốc Sasan (shahanshah) còn được gọi là Đế chế Tân Ba Tư, ông
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
nhỏ|Bức vẽ từ thế kỉ XV mô tả cảnh ba người đàn ông bị hành quyết bằng cách xẻ đôi. **Xẻ đôi người** là một hình thức xử tử được áp dụng tại nhiều nơi
**Jovianus** (tiếng Latin: _Augustus Flavius ​​Jovianus_; 331-17 tháng 2 năm 364), là Hoàng đế La Mã từ năm 363-364. Sau cái chết của hoàng đế Julianus trong chiến dịch chống lại người Ba Tư, Jovianus
Trong lịch sử, đã có những vị đế vương vì có công với việc thay đổi Quốc gia nên họ được gọi là "Vĩ đại". Ở Ba Tư, danh từ này được sử dụng lần
**Adhur Narseh** (tiếng Ba Tư: آذرنرسه), là con trai của vua Hormizd II và là vua thứ chín của Nhà Sassanid. Sau khi cha ông qua đời, các nhà quý tộc và giáo sĩ Hỏa
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Ctesiphon** ( _Tīsfūn_; ; , ; tiếng Ba Tư trung đại: 𐭲𐭩𐭮𐭯𐭥𐭭 _tyspwn_ hay _tysfwn_, Hán-Việt: _Tích Phong_) là thủ đô của Đế quốc Parthia và Đế quốc Sassanid. Đó là một trong những thành
**Nasser al-Din Shah Qajar**, (16 tháng 6 năm 1831-1 tháng 5 năm 1896) là vị vua thứ tư của nhà Qajar của Ba Tư, trị vì từ 17 tháng 9 năm 1848 cho đến 1
**Valens **(Latin: Augustus Valens Flavius ​​Julius; 328-9 tháng 8 năm 378) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 364-378. Ông đã được trao cho nửa phía đông của đế quốc bởi Valentinianus I, anh
Một cuộc rước ngày [[Chúa nhật Lễ Lá, bích họa ở Cao Xương thời Nhà Đường]] **Cảnh giáo** hay **Giáo hội Phương Đông**, còn gọi là **Giáo hội Ba Tư**, là một tông phái Kitô
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Gallienus** (; 218 – 268) là Hoàng đế La Mã với cha mình Valerianus từ năm 253 đến 260 và một mình từ năm 260 đến 268. Ông đã cai trị trong cuộc khủng hoảng
**Azarmidokht** (tiếng Trung Ba Tư: Āzarmīgdukht, tiếng Ba Tư: آزرمیدخت) là nữ hoàng nhà Sassanid của Ba Tư trong giai đoạn 630-631, bà còn là con gái của vua Khosrau II. Bà đã cai trị
Dưới đây là danh sách quân chủ của nhà Sasan, những người đã lật đổ sự cai trị của đế quốc tiền nhiệm Parthia tại trận Hormozdgan năm 224. Đế quốc thời kỳ đỉnh cao
**Shahrbaraz**, còn được gọi là **Shahrvaraz** (tiếng Ba Tư: شهربراز, tiếng trung Ba Tư: 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰 Šahrwarāz, qua đời ngày 17 tháng 6 năm 629), là vua của đế chế Sassanid từ ngày 27 tháng 4
**Borandukht**, (còn được phát âm là **Boran**, **Poran**, và **Purandokht**, tiếng Ba Tư: بوراندخت), là con gái của vua Sassanid Khosrau II (từ năm 590-628). Bà là một trong hai người phụ nữ ngồi trên
**Bistam** hoặc **Vistahm** (tiếng Ba Tư: بیستام), là một vị vua Parthia xuất thân từ gia tộc Ispahbudhan, và là người cậu của vua Sassanid, Khosrau II (trị vì từ năm 591-628). Vistahm đã giúp
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Farrukh Hormizd** hoặc **Farrokh Hormizd** (tiếng Ba Tư: فرخهرمز), là một spahbed ở miền bắc Ba Tư, ông là một hoàng tử của Atropatene Sau đó, ông đã gây ra sự tranh giành quyền lực
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Gordianus III** (; 225 – 244), là Hoàng đế La Mã từ năm 238 đến 244. Ở tuổi 13, cậu trở thành vị hoàng đế La Mã hợp pháp trẻ nhất cầm quyền xuyên suốt
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
nhỏ|Di tích lâu đài [[Tachara của Darius I; xây vào khoảng thế kỷ 5 TCN]] **Persepolis** (tiếng Ba Tư cổ: 𐎱 𐎠 𐎼 𐎿 Pārsa, tiếng Ba Tư hiện đại: تخت جمشید / پارسه, _Takht-e
nhỏ|Odaenathus **Lucius Septimius Odaenathus**, **Odenathus** or **Odenatus** (tiếng Aram: ܐܕܝܢܬ / ; Greek: / _Hodainathos_; / ALA-LC: _Udhaynah_) (? - 267), tên Latinh hóa theo kiểu Syria **Odainath**, là một vị vua xứ Palmyra, Syria
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
**Numerianus** (; ? – 284) là Hoàng đế La Mã từ năm 282 đến 284 với người anh trai Carinus. Cả hai đều là con của Carus, một viên tướng được thăng lên chức Pháp
**Nhà Mihrān** hay **Mehrān** là một gia đình quý tộc Iran (_šahrdārān_), là một bảy đại gia tộc của Đế quốc Sassanid Ba Tư và tự nhận là hậu duệ của nhà Arsaces trước đó.
**Vương triều Sasan** (còn được biết đến dưới tên gọi **Sassanid** hoặc **Nhà Sasan**) là một vương triều đã sáng lập nên Đế quốc Sasan của Iran, trị vì đế quốc từ năm 224 cho
Người **Machelones** () (Machelônes, Machelonoi; ) là một bộ lạc người Colchis nằm xa về phía nam của Phasis (ngày nay là sông Rioni, miền tây Georgia). Họ được nhắc đến một vài lần trong