✨Chương Nghĩa quân

Chương Nghĩa quân

Chương Nghĩa quân (淮西軍), hay Hoài Tây quân, trị sở nay thuộc Trú Mã Điếm, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, là một phiên trấn dưới thời Trung Đường trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trấn lớn mạnh trong giai đoạn 762 - 817, cai trị độc lập với chính quyền trung ương, thậm chí từng lập quốc vào năm 784 - 786 với quốc hiệu Đại Sở. Về sau nhà Đường đem quân thảo phạt, giết Tiết độ sứ Ngô Nguyên Tế vào năm 817, trấn Chương Nghĩa lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Đường.

Lịch sử

Lý Trung Thần

Trấn Chương Nghĩa nguyên tên là trấn Hoài Tây. Từ năm 755, An Lộc Sơn nổi dậy chống lại nhà Đường, kiến lập chính quyền Yên. Mặc dù cuộc nổi dậy này bị dẹp sau 8 năm, nhưng chính quyền trung ương nhà Đường cũng bắt đầu thể hiện dấu hiệu suy yếu. Các tướng lĩnh cũ của Yên đầu hàng, được triều đình bổ dụng làm tiết độ sứ các trấn vùng Hà Bắc như Điền Thừa Tự ở Ngụy Bác, Lý Bảo Thần ở Thành Đức, Lý Hoài Tiên ở Lư Long,... Để tạo sự cân bằng về thế lực, nhà Đường còn đặt các trấn vào sâu bên trong nội địa. Một số phiên trấn lớn bên trong bao gồm Hầu Hi Dật ở Bình Lư, Điền Thần Công ở Biện Tống, Lương Sùng Nghĩa ở Sơn Nam Đông Đạo và Lý Trung Thần ở Hoài Tây.

Lý Trung Thần (716 - 784), tên thật là Đổng Tần. Ông xuất thân trong gia đình quan lại, tổ phụ từng giữ chức ở phủ đô hộ An Đông. Sử sách miêu tả ông mạnh mẽ, uy võ. Về sau ông được cử làm tướng phục vụ tại trấn Bình Lư, dưới quyền Tiết độ sứ Vương Huyền Chí. Lúc loạn An Sử nổ ra, ông lập công to giúp triều đình nhà Đường tiêu diệt chính quyền Yên, nên được ban quốc tính, tên gọi là Trung Thần, phong chức Tiết độ sứ Hoài Tây năm 762, lãnh thổ cai trị gồm 11 châu phía bắc sông Hoài, về sau tăng thêm An châu. Dưới thời Đưòng Đại Tông (762 - 779), ông tham gia vào các chiến dịch thảo phạt các tướng phản động là Bộc Cố Hoài Ân, tiết độ sứ Đồng Hoa Chu Trí Quang, và chống quân Thổ Phiên xâm lấn.

Năm 773 - 775, ông hưởng ứng triều đình thảo phạt tiết độ sứ Ngụy Bác Điền Thừa Tự nhưng không thu được kết quả. Năm 776, tướng Biện châu là Lý Linh Diệu chiếm thành chống nhà Đường, Lý Trung Thần tham gia thảo phạt. Lý Linh Diệu bị diệt, nhà Đường đem đất Biện châu thưởng công cho quân Hoài Tây, nâng lãnh thổ Hoài Tây lên thành 13 châu. Lúc này Lý Trung Thần cho lập trị sở ở Thái châu.

Lý Trung Thần bị sử sách đánh giá là kẻ tham lam, hung bạo và háo sắc. Ông ta không tu quân chính, lại còn cưỡng dâm vợ và con gái của nhiều tướng dưới quyền. Ông phó thác việc trong phủ cho em rể là phó sứ Trương Huệ Quang; cha con người này lộng quyền quá, nhân dân oán hận. Cháu của Lý Trung Thần là Lý Hi Liệt được mọi người hướng về, bèn nảy sinh ý khác. Ông liên kết Thiếu tướng Đinh Hạo, Cổ Tử Hoa, Giám quân quan tương Tri Chương... khởi binh, giết chết cha con Huệ Quang vào ngày 28 tháng 3 năm 779, bề ngoài nói là để thuận tiện cho việc chiêu dụ hoặc tấn công Lý Nạp, nhưng thực chất là ông đã bí mật giao thông với chư tặc ở Hà Bắc, bàn kế làm loạn.

Bốn trấn làm phản xưng vương hiệu năm 782. bàn tính việc lôi kéo Lý Hi Liệt về phía mình, thỉnh Hi Liệt xưng đế hiệu. Hi Liệt chưa bằng lòng hắn, bèn giả mệnh Đức Tông, tự lập Thiên hạ đô nguyên soái, Thái úy, Kiến Hưng vương. Năm sau, bốn trấn sai sứ đến chỗ Lý Hi Liệt, thượng biểu xưng thần, khuyến tiến. Mùa xuân năm 783, Lý Hi Liệt cử quân xâm nhập Nhữ châu, bắt tướng Đường Lý Nguyên Bình rồi lui về. Cả thành Lạc Dương rúng động. Lý Hi Liệt sau đó còn đưa quân quấy nhiễu các châu xung quanh thành Lạc Dương. Hi Liệt lại tìm cách chặn đường giao thông từ Trường An đến Giang Hoài, khiến quân triều đình phải liên hệ với Giang Nam bằng con đường vòng. Ông sai bộ tướng Hàn Sương Lộ, Lưu Kính Tông, Trần Chất, Địch Huy đem quân cướp phá các châu huyện, đánh bại quân triều đình nhiều trận. Triều đình sai Lưu Đức Tín, Lý Miễn, Ca Thư Diệu thảo phạt, nhưng không thành công. Tương Thành bị quân Hoài Tây bao vây rất ngặt.

Cuối năm này, Chu Thử tiếm hiệu xưng đế, Vua Đức Tông phải chạy về Phụng Thiên. Nghe tin xa giá rời kinh, Hi Liệt ra quân tấn công, đại phá Ca Thư Diệu ở Tương Thành, Diệu chạy về Đông đô. Lại thừa thắng công hãm Biện châu, Lý Miễn cho quân phòng thủ, Hi Liệt công phá rất lâu chưa hạ được. Đầu năm 784, Lý Miễn thua trận chạy về Tống châu, Lý Hi Liệt chiếm được Biện châu. Ông dời trị sở Hoài Tây đến Biện châu. Thứ sử Hoạt châu dưới quyền tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo là Lý Thừa là Lý Trừng đem Hứa châu theo về với Lý Hi Liệt. Cả Giang Hoài rúng động. Tiết độ sứ Hoài Nam Trần Thiếu Du sợ hãi, sai Ôn Thuật đến Biện quy phục Lý Hi Liệt.

Khi Hà Bắc chư tặc hàng phục, Lý Hi Liệt ý thế mạnh vẫn không phục và quyết định tự lập. Mùa xuân năm 784, Lý Hi Liệt tự xưng là hoàng thượng nước Sở, niên hiệu Vũ Thành.

Tiếp tục bán li khai

Trong cùng năm 786, Ngô Thiếu Thành giết Trần Tiên Kì, nắm quyền lãnh đạo Hoài Tây. Vua Đức Tông bất lực ngồi nhìn, sau đó hạ chiếu phong cho con mình là Lý Lượng làm tiết độ sứ ở Hoài Tây trên danh nghĩa, còn Ngô Thiếu Thành làm Thân Quang Thái đẳng châu tiết độ quan sát binh mã lưu hậu, nắm thực quyền vì Lý Lượng không có mặt ở Hoài Tây mà vẫn ở Trường An. Năm 789, nhà Đường chính thức phong Ngô Thiếu Thành chức tiết độ sứ Chương Nghĩa.

Từ năm 798 - 800, Ngô Thiếu Thành tiến hành chiến dịch chống nhà Đường. Năm 798, do thiếu lương thực, ông dẫn quân cướp bóc Hoắc San thuộc Thọ châu của trấn Hoài Nam, giết chết tướng triều đình là Tạ Tường và chiếm được Hoắc Sơn. Sang năm 799, ông lại tấn công vào địa phận Đường châu (Trú Mã Điếm, Hà Nam, Trung Quốc) thuộc trấn Sơn Nam Đông Đạo, bắt dân đưa về. Cùng năm ông lại đem quân tấn công vào huyện Lâm Dĩnh của trấn Trần Hứa. Tại Trường An, vua Đức Tông hạ chiếu tước hết quan tước của Ngô Thiếu Thành và điều quân các trấn xung quanh cùng tấn công Chương Nghĩa. Tuy giành thắng một số trận, nhưng quân đội triều đình thiếu sự phối hợp với nhau nên nhanh chóng mất phương hướng và bị quân Hoài Tây đảo ngược tình hình. Về sau Hàn Toàn Nghĩa giết được đô tướng các trấn hỗ trợ Chương Nghĩa là Chiêu Nghĩa, Hoạt châu, Hà Dương, Hà Trung, chỉnh đốn lại binh mã. Trước tình hình đó, ông rút quân về Thái châu vào mùa đông năm 800. Về sau nhà Đường phải xá tội và khôi phục toàn bộ quan tước cho ông. Theo Tân Đường thư, Ngô Thiếu Thành tìm cách khích động người dân trong trấn chống lại triều đình bằng cách phao lên rằng triều đình hạ lệnh cho Hàn Toàn Nghĩa cướp bóc vùng Hoài Tây, bắt phụ nữ vào cung hầu hạ. Đồng thời ông cho làm nhiều văn tự bí ẩn có nội dung nói xấu triều đình nhà Đường.

Năm 810, Ngô Thiếu Thành qua đời. Khi còn ở Ngụy Bác, cùng với em họ là nha tướng Ngô Thiếu Dương có quan hệ gần gũi với nhau. Khi lên nắm quyền, ông sai sứ đến Ngụy, gửi tặng vàng và lụa nhờ tiết độ sứ Điền Tự đưa Ngô Thiếu Dương đến Chương Nghĩa, người Ngụy nghe theo. Ngô Thiếu Thành đặc biệt hậu đãi Ngô Thiếu Dương, Thiếu Dương thăng tiến nhanh chóng được tự do ra vào nhà ông. Thấy Thiếu Thành độc ác khắc nghiệt, Thiếu Dương tỏ ra lo sợ, nên xin ra ngoài, được phong chức thứ sử Thân châu được khoảng 5 năm. Thiếu Dương khoan dung nhân ái nên được quân sĩ ủng hộ, tôn phù.

Năm 814, Ngô Thiếu Dương qua đời tại trấn. Con trai ông là Ngô Nguyên Tế giấu việc không báo tang, rồi dâng biểu lên triều đình xin lĩnh tiết việt, nhưng Nhà Vua không chấp thuận. Đáp lại, Ngô Nguyên Tế đem quân cướp phá những vùng xung quanh khiến triều đình quyết định cử quân thảo phạt, cuối cùng Nguyên Tế thua trận và bị giết. Bùi Độ được phong chức Tiết độ sứ 10 châu ở Chương Nghĩa. Từ đó đất Sở trở về quyền quản lý của triều đình.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chương Nghĩa** là một địa danh hành chính cũ cấp quận thuộc tỉnh Kon Tum thời Việt Nam Cộng hòa. Địa bàn quận Chương Nghĩa tương ứng một địa bàn rộng lớn gồm một phần
**Chương Nghĩa quân** (淮西軍), hay **Hoài Tây quân**, trị sở nay thuộc Trú Mã Điếm, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, là một phiên trấn dưới thời Trung Đường trong lịch sử Trung Quốc. Đây là
Một **chương trình quản lý cửa sổ X** (tiếng Anh: _X window manager_) là một phần mềm điều khiển sự bố trí và ngoại hình của các cửa sổ trong hệ thống X Window, một
**Chủ nghĩa quân quốc** hay còn gọi là **Chủ nghĩa quân phiệt** là tư tưởng của một chính phủ rằng nhà nước nên duy trì khả năng quân sự mạnh mẽ và sử dụng để
**Thời đại quân phiệt** là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc
**Chương An Quán Đính** (chữ Hán: 章安灌頂; 561-632), pháp hiệu **Quán Đính** (灌頂, còn được đọc là **Quán Đỉnh**), là một cao tăng Phật giáo. Đương thời, dân gian xưng tụng Sư là **Chương An
**Chương Hàm** (章邯, ? – 205 TCN) là tướng cuối thời nhà Tần, đầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới quyền Tần Nhị Thế và Sở Bá vương Hạng
**_Quân Vương_** (tiếng Ý: _Il Principe_, tiếng Anh:_The Prince_) là một cuốn sách bàn về khoa học chính trị của nhà ngoại giao, nhà sử học, nhà triết học chính trị người Ý tên Niccolò
**Quân Khăn Đỏ** () là các lực lượng khởi nghĩa nông dân cuối đời Nguyên, ban đầu là do các tông giáo dân gian như Minh giáo, Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo kết hợp
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Nghĩa Hưng** là một huyện ven biển nằm ở phía nam tỉnh Nam Định, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Nghĩa Hưng nằm ở phía nam của tỉnh Nam Định,
**Ngũ quân Đô đốc** (chữ Hán: 五軍都督, tiếng Anh: Commander-General of the Five Armies), hoặc Đô đốc, là tên gọi tắt của chức võ quan với thực quyền cao nhất thời Trần, Lê sơ, Mạc
**Lý Hồng Chương** (, 1823 – 1901) là một đại thần triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người tỉnh An Huy, xuất thân gia đình quan lại. Trong cuộc đời
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
nhỏ|phải|[[Phan Đình Phùng, thủ lĩnh Khởi nghĩa Hương Khê.]] **Khởi nghĩa Hương Khê** (1885 - 1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương, và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
Đặng Huấn (?-1583) là đại thần có công giúp nhà Lê trung hưng thời chiến tranh Lê - Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông là hậu duệ của Tể tướng Đặng Dung [3], quê
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Đông Kinh Nghĩa Thục** (; lập ra từ tháng 3 năm 1907 và chấm dứt vào tháng 11 năm 1907) là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu
**Lục quân Hoa Kỳ** là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm với các chiến dịch quân sự trên bộ. Đây là một trong những quân chủng lâu đời và lớn
**Phan Chương** (chữ Hán: 潘璋; bính âm: Pan Zhang; ???-234) tự là **Văn Khuê** (文珪) là một viên võ tướng nhà Đông Ngô trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc. Ông được
**Trường Thiếu sinh quân** (1956-1975) là một cơ sở đào tạo nam thiếu niên trên hai phương diện: Văn hóa Phổ thông và Cơ bản Quân sự của Việt Nam Cộng hòa. Trường được đặt
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
**Chủ nghĩa quốc gia xã hội**, hay **Chủ nghĩa quốc xã** (, viết tắt là _Nazismus_) là hệ tư tưởng và những hành động của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa
**Lưu Chương** (chữ Hán: 刘璋; 162 - 219), tên tự là **Quý Ngọc** (季玉), là một chư hầu cát cứ vào cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Công binh Lục quân Hoa Kỳ** (_United States Army Corps of Engineers_ hay viết tắt là **_USACE_**) là một cơ quan liên bang và là một bộ tư lệnh chính yếu của Lục quân Hoa
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
nhỏ|Ảnh chụp thực tế mảnh vải với họa tiết K20 của [[Quân đội nhân dân Việt Nam, phiên bản màu dành cho Lục quân. Đây cũng là phiên bản được biên chế rộng rãi nhất
Dưới đây là danh sách các biểu trưng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. ## Ngày truyền thống *1 tháng 10 năm 1949: Ngày thành lập Quân chủng Bộ binh *1 tháng 6 năm
Các phác thảo sau đây được cung cấp như là một cái nhìn tổng quan và hướng dẫn về quản lý: **Quản trị kinh doanh** – quản lý của một doanh nghiệp. Nó bao gồm
**Quán Anh** (chữ Hán: 灌嬰, ? - 176 TCN), nguyên là người huyện Tuy Dương, là chính trị gia, thừa tướng nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân từ một thương nhân, ông
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
nhỏ|300x300px|Lực lượng Liên quân tám nước: , , , , , , , **Liên quân tám nước** hay **Bát Quốc Liên Quân** (八國聯軍) là liên minh của tám quốc gia đế quốc nhằm chống lại
**Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn** hay còn gọi là **Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn** () hoặc bị miệt thị là giặc "quyền phỉ" là một phong trào bạo lực ở tại miền Bắc Trung Quốc
thumb|right|[[Benito Mussolini (trái) và Adolf Hitler (phải), hai thủ lĩnh phát xít.]] **Chủ nghĩa phát xít** là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
**Khởi nghĩa Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn IV** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân – Lục quân – Không quân, là
right|thumb|[[Số Bell|52 quan hệ tương đương trên tập 5 phần tử được biểu diễn dưới ma trận logic 5 \times 5 (các ô được tô màu biểu diễn số 1, tức là có quan hệ
**Bùi Hữu Nghĩa** (1807 - 1872), hay **Thủ khoa Nghĩa**, trước có tên là là **Bùi Quang Nghĩa**, hiệu **Nghi Chi**; là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam.
**Chủ nghĩa cơ yếu** hay **chủ nghĩa toàn thống** (tiếng Anh: _fundamentalism_) đề cập đến niềm tin nghiêm ngặt, trung thành tuyệt đối với những nguyên tắc cơ bản, trong thực tế thường nói đến
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) **Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế** gồm nhiều di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Khu di tích này
**Hội quán Ôn Lăng** (chữ Hán: 溫陵會館, hay Ôn Lăng hội quán) còn được gọi là **chùa Ôn Lăng**, **chùa Quan Âm** hay **chùa Ông Lào**; là một ngôi chùa của người Việt gốc Hoa,
**Hội thề Đông Quan** là một sự kiện diễn ra vào ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 12 năm 1427), giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và