✨Ngũ quân Đô đốc

Ngũ quân Đô đốc

Ngũ quân Đô đốc (chữ Hán: 五軍都督, tiếng Anh: Commander-General of the Five Armies), hoặc Đô đốc, là tên gọi tắt của chức võ quan với thực quyền cao nhất thời Trần, Lê sơ, Mạc và thời chúa Trịnh. Thời chúa Nguyễn, triều đình không đặt chức Ngũ quân đô đốc, chỉ dùng tước Đô đốc truy phong cho các vị tướng và riêng phong cho họ Mạc trấn thủ Hà Tiên. Thời Nguyễn, chức này còn được biết với tên là Ngũ quân Đô thống.

Chức trưởng quan phủ Ngũ quân đô đốc tương tự chức Nguyên Soái (tiếng Anh: Marshal) tại Tây phương thời nay. Chức thự quản hoặc phó quan phủ Ngũ quân đô đốc tương tự chức Thống chế (tiếng Anh: Field Marshal) tại Tây Phương thời nay.

Lịch sử

Từ thời Trần đến hết thời Mạc

Nguyên chức Đô đốc đã được lập từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều Trung quốc. Thời Minh Trung quốc, triều đình áp dụng chiến lược Ngũ quân Đô đốc phủ, đặt 5 phủ đô đốc trên toàn quốc là Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Tiền quân, Hậu quân. Mỗi phủ có 2 vị đô đốc (1 vị là Tả đô đốc và 1 vị là Hữu đô đốc, gọi chung là Tả, Hữu đô đốc), cùng trật Chánh nhất phẩm. Dưới Tả, Hữu đô đốc là Đô đốc đồng tri, Đô đốc thiêm sự mỗi chức 2 người, đều trật Tòng nhất phẩm. Đô đốc phủ giữ quyền thống binh nhưng quyền quân lệnh lại do bộ Binh nắm.

Tại Việt nam, cuối thời Trần năm Quang Thái thứ nhất 1 (1397), đặt chức An phủ sứ ở lộ; Trấn phủ sứ và phó sứ ở phủ; Thông phán, thiêm sự ở châu, Lệnh úy, Chủ bạ ở huyện. Quản lý theo nguyên tắc: Lộ thống các phủ, phủ thống châu, châu thống huyện. Lại đặt thêm các đô đốc, đô hộ, đô thống, tổng quản phủ và thái thú ty. Về phương diện quân sự, các phủ đô đốc, đô hộ, đô thống được đặt tại các lộ. Các phủ Tổng quản hoặc ty Thái thú được đặt tại các phủ. Thời kỳ này kéo dài đến hết thời Hồ, có lẽ chức vụ võ quan cao nhất, nắm giữ toàn binh quyền dưới vua, được áp dụng như các triều đại xưa tại Trung quốc và Việt nam, là chức Thái úy.

Thời Lê sơ, Lê Thái Tổ chia các đơn vị hành chính cao nhất trong nước làm 5 đạo. Về binh bị, mỗi đạo đặt một vệ quân. Đứng đầu mỗi vệ có quan Tổng quản, phụ tá có Đô Tổng quản, Đồng Tổng quản, Chánh Phó Đội trưởng, Chánh Phó Ngũ Trưởng. Về dân sự, đứng đầu mỗi đạo là quan Hành khiển giữ sổ sách về việc quân-dân. Thời kỳ này kéo dài đến trước thời Lê Thánh Tông năm 1466, có lẽ chức vụ võ quan cao nhất, nắm giữ toàn binh quyền dưới vua, được áp dụng như các triều đại xưa tại Trung quốc và Việt nam, là chức Thái úy.

Thời Lê Thánh Tông, tổ chức hành chính và quân đội được cải tổ mạnh mẽ. Các đơn vị hành chính toàn quốc được chia làm đạo, sau đổi làm thừa tuyên rồi xứ. Tổ chức quân ngũ được chia thành 3 cấp khác nhau:

  • Tổ chức quân ngũ tại ngũ phủ (toàn quốc / các đạo ngoài kinh sư)
  • Tổ chức quân ngũ tại kinh sư (kinh thành, Trung đô)
  • Tổ chức quân ngũ tại đạo / thừa tuyên / xứ Toàn quốc đổi từ 5 vệ quân làm 5 phủ đô đốc, gọi là Ngũ quân Đô đốc phủ (五軍都督府) với các tên gọi là Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ và Bắc quân phủ. Tất cả quân đội toàn quốc, trên danh nghĩa, đều được đặt dưới quyền điều hành của 5 phủ đô đốc. Dưới 5 phủ đô đốc là các Đô ty đặt tại các đạo. Trên danh nghĩa, mỗi đạo đặt một Đô ty để điều hành việc quân sự tại đạo và các Đô ty trực thuộc một trong 5 phủ trên do triều đình chỉ định. Nhưng thực tế, đạo có thể thuộc phủ hoặc không thuộc phủ về việc điều hành quân sự. Các đạo thuộc phủ không lập Đô ty, ngoại trừ đạo Thanh Hoa và đạo Nghệ An thuộc Trung quân phủ có Đô ty riêng. Các đạo không thuộc phủ như đạo Hưng Hóa, đạo Lạng Sơn, trên danh nghĩa do các quan Ngũ quân Đô đốc thống lĩnh quân binh, nhưng thực tế, các trưởng quan của các Đô ty tại những đạo này mới là các quan trực tiếp chỉ huy quân binh.

Ngoài ra, binh lính tại hai đạo Tuyên Quang và Thái Nguyên còn nhận trách nhiệm khác là quân Phụng Trực, tức quân túc trực tại kinh đô. vẫn áp dụng quan chế ngũ phủ đô đốc thời Lê Thánh Tông.

Thời Lê trung hưng - xứ Đàng Ngoài

Tại Đàng Ngoài, thời đầu chúa Trịnh vẫn áp dụng quan chế ngũ phủ đô đốc thời Lê Thánh Tông. Thời kỳ này, việc quyền lực rơi vào tay nhà chúa đồng nghĩa với chức tổng chỉ huy quân đội (như Thái úy) nằm trong tay các chúa. Dần dần, chức Thái úy không còn là chức với thực quyền chỉ huy quân đội mà là là một tước để phong cho các công thần có công với triều đình. Ví dụ như lần phong tặng chức tước Trung quân Đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái uý Đoan quốc công cho Nguyễn Hoàng năm 1593 khi ông đem qua ra Bắc giúp chúa Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc. Một chức mới, Đại nguyên soái, được các vua Lê phong cho các chúa Trịnh, với thực quyền nắm toàn bộ quyền tổng chỉ huy quân đội xứ Đàng Ngoài.

Năm 1664, chúa Trịnh Tạc đặt thêm chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự trong các phủ đô đốc. Theo Chính quyền nhà nước trung ương thời Lê-Trịnh:

"Năm 1664, cùng với việc đặt đủ số Thượng thư của sáu bộ bên triều đình, chúa Trịnh Tạc đặt thêm chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự và Quyển phủ sự, có nhiệm vụ bàn định các công việc trong phủ đô đốc và tra xét các tờ khải tâu lên. Những người được tham dự chức vụ này đều là những đại thần thân thuộc hoặc có công, như Thái phó Khê quận công Trịnh Trượng giữ chức Trung quân đô đốc phủ Tả đô đốc Chưởng phủ sự; Lỵ quận công Trịnh Đống giữ chức Đông quân Đô đốc phủ tả đô đốc Chưởng phủ sự; Thiếu úy Vân quận công Trịnh Kiền giữ chức Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Thự phủ sự; Thiếu phó Điện quận công Trịnh Ốc giữ chức Bắc quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Thự phủ sự. Chưởng phủ sự, Quyền phủ sự cùng với quan Tham tụng bên văn bàn bạc chính sự việc triều đình, chức nhiệm long trọng. Từ đời Bảo Thái (1720-1729) về sau, phần nhiều do quan văn đổi sang làm chức ấy như Quốc lão Đặng Đình Tướng làm Chưởng phủ sự, Tham tụng Nguyễn Công Cơ làm Thự phủ sự. Các chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự và Quyền phủ sự bên ngạch võ gọi là quan Ngũ phủ. Các chức Tham Tụng, Bồi Tụng bên ngạch văn gọi là quan Phủ Liêu. Quan Ngũ phủ và Phủ Liêu họp thành một cơ quan của nhà nước quân chủ trung ương gọi là Ngũ phủ Phủ liêu – một chính phủ tối cao đặt dưới quyền điều khiển của chúa Trịnh."

Với phiên chế này, hai vị võ quan Tả, Hữu Đô đốc trong các phủ đô đốc, ngoài việc chỉ huy binh bị, còn tham gia cùng với các quan ban văn bàn bạc việc triều đình. Phiên chế này đã tạo nên quan chế Ngũ phủ Phủ liêu, một chính phủ tối cao đặt dưới quyền điều khiển của chúa Trịnh.

Phiên chế này (Tả Hữu Đô đốc cùng 2 chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự) kéo dài đến cho đến hết thời chúa Trịnh, khi nhà Tây sơn lật đổ chúa Trịnh và chúa Nguyễn.

Thời Lê trung hưng - xứ Đàng Trong

Tại Đàng Trong, thời đầu chúa Nguyễn, Nguyễn Hoàng được bổ làm trấn thủ Thuận Hóa, vẫn thuần phục các chúa Trịnh nên không có những thay đổi lớn về hành chính và quân sự.

Đến thời chúa Sãi kế nhiệm Nguyễn Hoàng, cuộc cải tổ hành chính lẫn quân sự được tiến hành. Lãnh thổ xứ Đàng Trong được chia thành nhiều dinh, mỗi dinh cai quản một phủ, dưới phủ có huyện, tổng, xã. Quân binh được chia làm ba loại: quân túc vệ ở kinh thành Phú Xuân, quân chính quy đóng tại các dinh trên toàn quốc và thổ binh tại các địa phương. Quân chính quy được phiên chế theo thứ tự: dinh, cơ, đội và thuyền. Dinh là cấp quân đoàn cao nhất và đứng đầu dinh là Chưởng dinh, đứng đầu các cơ là Chưởng cơ và Cai cơ; đứng đầu các đội có Cai đội và Đội trưởng, đứng đầu các thuyền có các Cai thuyền. Chưởng dinh là cấp bậc võ quan cao nhất và chịu sự điều hành trực tiếp từ nhà chúa.

Bắt đầu từ đây, Chưởng dinh là chức võ quan cao cấp nhất tại xứ Đàng Trong. Chức Đô đốc chỉ còn được dùng để truy phong các vị công thần ban võ có công lớn với triều đình trong việc chống Trịnh và Nam tiến. Ví dụ năm 1656, chúa Hiền truy phong Nguyễn Cửu Kiều chức tước Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, Tả quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, Nghĩa quận công.

Phiên chế này (Chưởng dinh là vị võ quan cao nhất và các chức tước Đô đốc dùng để truy phong) kéo dài đến cho đến hết thời chúa Nguyễn, khi nhà Tây sơn lật đổ chúa Trịnh và chúa Nguyễn.

Thời Tây Sơn

Quan chế thời Tây Sơn cả văn quan và võ quan không có bộ chính sử nào ghi trọn vẹn, chỉ thấy rải rác trong các sách dã sử và tạp ký. Xem thêm tại bài viết Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn.

Thời Nguyễn

Thời chiến tranh Tây Sơn và chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Ánh được tôn là Đại nguyên soái, nắm quyền tổng chỉ huy quân đội. Chúa Nguyễn Ánh đã lập ra Ngũ quân Đô thống phủ với 5 đạo quân, tương tự với quan chế Ngũ quân Đô đốc thời Lê Thánh Tông. Các chưởng quản của phủ Ngũ quân Đô thống là các võ quan cao nhất triều và chịu sự điều hành trực tiếp từ nhà chúa và vua sau này. Cũng như thời chúa Nguyễn, chức Đô đốc thời Nguyễn chỉ còn được dùng để truy phong các vị công thần ban võ thời chúa Nguyễn có công lớn trong việc chống Trịnh và Nam tiến. Ví dụ năm Gia Long 4 Ất Mùi 1805, triều Nguyễn truy phong Nguyễn Hữu Cảnh chức tước Tuyên lực công thần, đặc tấn Phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm Y vệ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, phó tướng chưởng cơ Lễ Tài hầu, thụy Tuyên Vũ.

Cách đọc hoặc viết chức quan này trong tiếng Việt

Thời Lê Thánh Tông đến trước hoặc giữa thời Mạc, thời này trong một phủ đô đốc có hai vị Tả, Hữu đô đốc cùng điều hành phủ, không có chức chưởng hoặc thự phủ sự. Vì vậy, tên chức cần có tên quân doanh (Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung) và chức Tả, Hữu để phân biệt.

  • Cách viết là: tên đơn vị quân doanh (đông, tây, v.v) + quân + đô đốc phủ + chức (tả, hữu) + đô đốc ví dụ: Đông quân đô đốc phủ Tả đô đốc chữ Hán: 東軍都督府左都督 ** Năm Bính Thân 1536, "...Họ Mạc sai Đông quân đô đốc phủ tả đô đốc Khiêm quận công Mạc Đình Khoa trùng tu Quốc tử giám.... " - Đại Việt sử ký tục biên, quyển XVI
  • Hoặc viết ngắn gọn như Trung quân Tả đô đốc như "... Vương sai Trung quân Tả đô đốc xxx..."
  • Hoặc viết ngắn gọn như khi lệnh vua / chúa dặn dò "các tướng Tiền quân Tả, Hữu đô đốc " Thời Mạc trở về sau, thêm chức chưởng hoặc thự phủ sự.
  • Cách viết là: tên đơn vị quân doanh (đông, tây, v.v) + quân + đô đốc phủ + chức (tả, hữu) + đô đốc + chưởng phủ sự ví dụ: Đông quân đô đốc phủ Tả đô đốc chưởng phủ sự chữ Hán: 東軍都督府左都督掌府事 Hãy cẩn thận:
  • Nếu viết thiếu tên đơn vị quân doanh (đông, tây, v.v), người đọc sẽ khó mà hình dung vị Tả, Hữu đô đốc ấy thuộc quân doanh (đông, tây, v.v) nào và quan trọng ra sao Năm 1663, "..._Mùa xuân, tháng giêng, bấy giờ, vua còn nhỏ tuổi, Vương sai Tả đô đốc Trạc quận công Trịnh Kiêm, Hữu đô đốc** Phổ quận công Hoàng Sĩ Khoa, Đô đốc đồng tri Cường quận công Nguyễn Thụ, Đô đốc thiêm sự Giao quận công Trịnh Doanh vào coi quân bốn vệ để thị vệ..._ ". Cách viết này không cho biết các vị Tả, Hữu đô đốc thuộc phủ nào.

Lưu ý

  • Thời chúa Nguyễn, chức Đô đốc được riêng phong cho Mạc Thiên Tứ, trấn thủ Hà Tiên. Không giống như chức đô đốc trong Ngũ quân đô đốc thuần túy chỉ huy quân đội. Chức Hà Tiên Đô đốc này là chức thống lĩnh mọi việc dân sự và quân sự tại trấn Hà Tiên.
  • Thời Hậu Lê, chức Đô Tổng binh sứ được dùng cho các đạo ngoài kinh đô, là chức chỉ huy các Đô ty tại các đạo / thừa tuyên / xứ theo phiên chế Ngũ quân Đô đốc phủ. Tại Kinh đô, Đô chỉ huy sứ là chức được phong cho các vị võ quan đứng đầu các ty quân sự tại kinh đô như Cẩm Y vệ hoặc Điền tiền vệ, không dùng chức Đô Tổng binh sứ.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngũ quân Đô đốc** (chữ Hán: 五軍都督, tiếng Anh: Commander-General of the Five Armies), hoặc Đô đốc, là tên gọi tắt của chức võ quan với thực quyền cao nhất thời Trần, Lê sơ, Mạc
**Ngũ quân Đô đốc phủ** (chữ Hán: 五軍都督府, tiếng Anh: Five Chief Military Commissions) là một chiến lược quân sự bắt đầu từ triều Minh Trung Quốc và được áp dụng tại các triều đại
**Ngũ quân Đô thống** (chữ Hán: 五軍都統, tiếng Anh: Commander-General of the Five Armies) là tên gọi tắt của chức quan võ cao nhất thời Nguyễn, trật Chánh nhất phẩm, cáo thụ Đặc tiếng tráng
Danh xưng **Đô đốc** trong tiếng Việt ngày nay được hiểu theo nghĩa hẹp là bậc quân hàm sĩ quan cao cấp trong lực lượng Hải quân các quốc gia, tương đương cấp bậc _admiral_
**Tả Hữu Đô đốc** (chữ Hán: 左右都督) là hai vị Đô đốc đồng chỉ huy một phủ đô đốc trong chiến lược Ngũ quân Đô đốc phủ. Thời Minh Trung Quốc, Tả Hữu Đô đốc
**Thủy sư đô đốc** hay **Đô đốc Hạm đội** (, viết tắt **FADM**) là một cấp bậc sĩ quan đô đốc 5 sao và là cấp bậc đô đốc hải quân cao nhất trong Hải
**Đô đốc Hải quân** (, viết tắt là **AN**) là cấp bậc cao nhất có thể có trong Hải quân Hoa Kỳ. Cấp bậc này tương đương với một đô đốc 6 sao và là
Dưới đây là danh sách thuật ngữ quần vợt. ## A * **ace**: Thuật ngữ này rất quen thuộc, được hiểu là một pha giao bóng ăn điểm trực tiếp, nhưng với điều kiện là
thumb | 220x124px | right | [[Adolf Hitler - lãnh đạo chế độ độc tài toàn trị của Đức Quốc Xã 1933 - 1945]] **Chế độ độc tài** (; cách dịch khác là **chuyên chính**),
**Chế độ độc tài quân sự** là một hình thức của độc tài do một lực lượng quân sự gây sự kiểm soát hoàn toàn hoặc đáng kể đối với chính quyền chính trị, mà
**Chế độ Đốc chính** hay **Hội đồng Đốc chính** () là ủy ban điều hành gồm 5 thành viên của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp từ ngày 26 tháng 10 năm 1795 (ngày 4 tháng
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
nhỏ|Phân bố quân lực thời Hồng Đức (1471) **Quân đội nhà Lê Sơ** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết
**Đô đốc hạm đội** (), còn gọi là **Thủy sư đô đốc** (), trong nhiều trường hợp là cấp bậc tướng lĩnh hải quân cao cấp nhất trong lực lượng hải quân của một số
Tàu **_Đô đốc Vinogradov_** (tiếng Nga: _Адмирал Виноградов_) là một tàu khu trục lớp _Udaloy_ của Hải quân Liên Xô và nay của Hải quân Nga, hiện thuộc biên chế của Hạm đội Thái Bình
thumb|Đầu một bức tượng, được cho là của pháp quan Gaius Octavius, khoảng năm 60 TCN, [[Glyptothek, München]] **Gaius Octavius** (khoảng 100 – 59 TCN) là tổ tiên của các hoàng đế La Mã thuộc
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Quan chế Hậu Lê** là hệ thống các định chế cấp bậc phẩm hàm quan lại phong kiến kiểu Trung Hoa, được áp dụng ở Việt Nam dưới thời Lê sơ và một phần dưới
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
thumb|[[Tổng thống Sri Lanka|Tổng thống Maithripala Sirisena với Thủ tướng Narendra Modi]] **Quan hệ Ấn Độ – Sri Lanka** dù rất thân thiện nhưng đã bị ảnh hưởng và gây tranh cãi bởi cuộc nội
**Đỗ Dự** (chữ Hán: 杜预; 222-284) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Đỗ Lăng, Kinh Triệu (nay là phía đông nam Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc). Ông là người
**Đô đốc Tuyết** (chữ Hán: 都督雪; ?-1802?), có tên là **Nguyễn Văn Tuyết** (阮文雪), là danh tướng nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. ##
Lực lượng Vũ trang Quốc gia Indonesia (TNI) sử dụng một hệ thống xếp hạng đơn giản hóa cho ba quân chủng Lục quân Indonesia, Hải quân Indonesia và Không quân Indonesia. Hầu hết các
**Đỗ Xuân Công** (6 tháng 5 năm 1943 – 19 tháng 3 năm 2022) là một tướng lĩnh và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Bí
**Đỗ Thế Giai** (chữ Hán: 杜世佳, 1709 - 1766) là một đại thần nhà Lê trung hưng. Ông được một số báo mạng cho là người duy nhất thời Lê được phong vương (_Đỗ đại
**Đô đốc Bảo** (都督保) tên thật **Đặng Xuân Bảo** (鄧春保; ?-1802), danh tướng nhà Tây Sơn, chỉ huy một trong 5 cánh quân đại phá quân Mãn Thanh, năm Kỷ Dậu (1789). Trong Tây Sơn
:_Bài này nói về một tòa nhà ở Singapore được biết đến với tên gọi Tòa Đô đốc Hải quân (Admiralty House) trong giai đoạn 1958 tới 2002. Vui lòng xem trang Nhà Đô đốc
**Đề Đốc** (chữ Hán: 提督, tiếng Anh: Provincial Military Commander) là một chức võ quan nắm giữ binh quyền một tỉnh thời Nguyễn, trật Chánh nhị phẩm. Cấp trên của Đề đốc là Đô Thống
**Đô đốc Lộc** (都督祿; ? - ?), tên thật là **Nguyễn Văn Lộc** (阮文祿), là một trong Tây Sơn thất hổ tướng và là một danh tướng nhà Tây Sơn. ## Thân thế & sự
**Chế độ đốc chính** (tiếng Anh: **Directorial system)** là một chế độ được quản trị bởi tập thể, những người cùng nhau thực hiện quyền lực của một nguyên thủ quốc gia và/hoặc một người
Sáng 16/4, tại Khu du lịch Văn hóa Phương Nam (Đồng Tháp) đã long trọng tổ chức 204 năm giỗ Tổ Thủy sư Đô đốc Đặng Nhân Cẩm. Hàng ngàn du khách, dòng họ Đặng,
Sáng 16/4, tại Khu du lịch Văn hóa Phương Nam (Đồng Tháp) đã long trọng tổ chức 204 năm giỗ Tổ Thủy sư Đô đốc Đặng Nhân Cẩm. Hàng ngàn du khách, dòng họ Đặng,
nhỏ|[[Lý Quang Diệu, cố thủ tướng Singapore trong giai đoạn 1959 - 1990. Người thường được xem là nhà độc tài nhân từ.]] Một **chế độ độc tài nhân từ** đề cập đến một chính
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
thumb|267x267px|[[Julius Caesar, nhà độc tài La Mã]] thumb|316x316px|[[Adolf Hitler, nhà độc tài tại Đức từ 1933 tới 1945.]] thumb|244x244px|[[Suharto, nhà độc tài Indonesia từ 1967 đến 1998.]] **Nhà độc tài** là một người lãnh đạo
Tóm tắt nội dung Với ngôn ngữ khúc triết, các bức ảnh sinh động, nội dung sách đã giới thiệu với bạn đọc những kiến trúc đô thị nổi tiếng thế giới. Trong cuốn sách
**Đội hình trận đánh** là cách tổ chức quân đội trên chiến trường theo đội hình chủ yếu: _Tiền vệ_, _Trung vệ_, _Hậu vệ_. Cả ba đội có vai trò khác nhau trong tác chiến,
**Phạm Mạnh Hùng** (sinh năm 1964), là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam quân hàm Chuẩn Đô đốc Hải quân nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh
thumb|Đội nghi lễ của [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong lễ phục mùa hè kiểu 14 tại Lễ duyệt binh Ngày chiến thắng tại Moskva năm 2015.]] **Quân hàm Quân Giải phóng Nhân
**Đỗ Quốc Việt** (sinh năm 1960) quê Quảng Bình, là một Tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Chuẩn Đô đốc, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Vùng
**Đỗ Viết Cường** (1950 – 2023) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Chuẩn đô đốc, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Phó Tham mưu
**Đổng Quân** (tiếng Trung giản thể: 董军, bính âm Hán ngữ: _Dǒng Jūn_, sinh năm 1961, người Hán) là tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Thượng tướng Hải quân Quân
**Trận Quan Độ** là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu – 2 thế lực quân
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Ấn Độ** (, ), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Ấn Độ** (, ) là một quốc gia ở khu vực Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ 7 về diện tích và
**Nam Ấn Độ** () là một khu vực của Ấn Độ gồm các bang Andhra Pradesh, Karnataka, Kerala, Tamil Nadu và Telangana cùng các lãnh thổ liên bang Andaman và Nicobar, Lakshadweep và Puducherry, chiếm
**Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ** là tuyên bố được thông qua bởi cuộc họp của Đệ nhị Quốc hội Lục địa tại Tòa nhà bang Pennsylvania (nay là Independence Hall) ở Philadelphia, Pennsylvania
**Quần đảo Falkland** ( ) hay **Quần đảo Malvinas** ( ) là một quần đảo nằm ở Nam Đại Tây Dương. Các đảo chính của quần đảo này nằm cách 500 km về phía đông của