✨Chủ nghĩa quân quốc

Chủ nghĩa quân quốc

Chủ nghĩa quân quốc hay còn gọi là Chủ nghĩa quân phiệt là tư tưởng của một chính phủ rằng nhà nước nên duy trì khả năng quân sự mạnh mẽ và sử dụng để mở rộng lợi ích hoặc giá trị quốc gia. Nó cũng có thể ám chỉ sự tôn vinh của quân đội và lý tưởng của một lớp quân sự chuyên nghiệp và "ưu thế của các lực lượng vũ trang trong chính quyền hoặc chính sách của nhà nước. Chủ nghĩa quân phiệt luôn luôn là yếu tố quan trọng của những ý thức hệ đế quốc, hay xâm lược của nhiều quốc gia trong suốt lịch sử loài người. Những thí dụ tiêu biểu như thành phố Hy Lạp Sparta, Đế quốc La Mã, Đế quốc Phổ, Đế quốc Anh, Đế quốc Nhật Bản, Đế quốc Mông Cổ, Đức Quốc xã và chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

Sau Thế chiến thứ hai, chủ nghĩa quân phiệt xuất hiện qua nhiều nước sau thời kỳ thực dân tại châu Á (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Myanmar và Campuchia của Pol Pot) và ở châu Phi (như Liberia, Nigeria và Uganda). Các chế độ quân phiệt cũng thấy hiện lên ở Mỹ Latinh như chính quyền cực hữu của Augusto Pinochet ở Chile, giành được quyền lực nhờ đảo chính và dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, trong khi những nước khác chính phủ quân sự có khuynh hướng thiên tả như của Hugo Chávez ở Venezuela, được dân bầu lên.

Quân đội và chiến tranh

Khuynh hướng Chủ nghĩa quân phiệt là ý muốn trang bị vũ khí quá mức, vai trò của quân đội gia tăng trong chính trị đối nội và đối ngoại hoặc là sử dụng bạo động như vũ khí cho chính trị. Họ thường tạo ra một lãnh tụ độc đoán, có nhiều quyền lực, và hung tợn. Những xã hội quân phiệt thường chú trọng đến những tập quán quân sự và địa vị như phân chia cấp bậc, huy chương, danh dự và anh hùng.

Chủ nghĩa quân phiệt không đồng nghĩa với bộ phận quân đội. Nó nói lên một định hướng xã hội thiên về tư tưởng quân sự. Một xã hội nặng về quân sự không phải lúc nào cũng dẫn tới chiến tranh. Ngược lại cũng có những trụ sở quân sự mà nhìn không thấy có nét quân phiệt.

Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt

Mặc đồng phục, tuân lời và phân biệt cấp bậc rõ ràng Huy chương, huyền thoại, sùng bái anh hùng Say mê quyền lực và tính ưu việt Ca tụng bạo lực, chiến tranh và vũ khí *Khoe khoang sức mạnh và sự bất khuất

Trong những xã hội mà bị quân sự hóa nặng nề, thường là có một thể chế độc tài, các thành viên thường bị đòi hỏi, từ bỏ giá trị cá nhân và đạo đức cho chính phủ quân đội. Con người được mài dũa phải từ bỏ cá tính riêng của mình để có được đặc tính chung thích hợp với xã hội đó. Lãnh tụ được hình tượng hóa. Người ta chấp nhận cái chế độ đó không xét lại.
Sự trao dồi về quân sự với mục đích là để luyện cho binh lính tuân lệnh, không đắn đo khi phải giết người khác. Con người bị ảnh hưởng của tập thể phải từ bỏ cá tính riêng của mình. Những hệ thống như vậy được duy trì nhờ sự kiểm soát, tội lỗi, sợ bị phạt. Một mặt khác những phần thưởng như tăng lương, tăng chức và các gương mẫu chiêu dụ người ta làm theo. nhỏ|[[Tượng của một chiến sĩ Sparta]]

Xã hội quân phiệt ở thành bang Sparta

Xứ Sparta cho đến thế kỷ thứ ba trước công nguyên là một thành phố tự trị, theo chủ nghĩa quân phiệt và thành bang này chẳng khác gì một trại lính. Số người nô lệ và helots (không phải nô lệ nhưng không có quyền công dân, chỉ làm việc ruộng đồng) đông hơn công dân Sparta. Khi vừa lên bảy, đứa bé trai thành Sparta sẽ bị bắt khỏi gia đình để đưa vào một loại câu lạc bộ quân sự, nơi huấn luyện nó chiến đấu và sinh hoạt theo kỷ luật sắt. Những kỹ năng duy nhất được dạy là kỹ năng quân sự, mạnh khỏe, kỷ luật và cam đảm, chứ không phải để trau dồi văn hóa, nghệ thuật. Đứa bé nào sinh ra mà bị dị tật hoặc yếu ớt sẽ bị bỏ cho chết đói trong hang động trên núi, một đứa bé như vậy theo quan điểm của người Sparta là không được phép sống.
Cơ sở quân sự được đào tạo để giữ những người nô lệ và người helots khỏi nổi loạn. Đàn ông được khuyến khích lấy vợ vào tuổi 20, nhưng chỉ được ở với gia đình từ tuổi 30 sau thời gian tích cực trong quân đội.

Con đường của Nhật Bản tiến tới chủ nghĩa quân phiệt

Chủ nghĩa quân phiệt và tham vọng đế quốc tại Nhật phát triển dần dần từ thời Minh Trị vì 5 lý do chính:

Hâm mộ chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây

Các nhà lãnh tụ Minh Trị tìm kiếm con đường để làm cho Nhật trở thành một quốc gia thượng hạng, bao gồm thế lực và sức mạnh nhờ chiếm đóng lãnh thổ ngoại bang. Trong thế kỷ 19, những cường quốc phương Tây như Anh quốc, Đức, Mỹ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Nga và Ý chiếm được rất nhiều lãnh thổ bằng những phương tiện quân sự. Do biết rất rõ lịch sử lâu đời của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, mà đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, những nhà lãnh đạo thời Minh Trị muốn tham dự với những cường quốc phương Tây để đòi hỏi quyền lợi và những ưu tiên tại các nước châu Á khác. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo này biết rằng quốc gia họ cần hiện đại hóa và gây sức mạnh cho quân đội trước khi họ bắt đầu đặt điều kiện với các nước phương Tây.
Ngay cả sau khi Nhật đã bỏ công xây dựng quân đội trong nhiều năm, các nhà lãnh tụ Nhật hiểu rằng vào năm 1895 họ vẫn chưa được ngang hàng với các đế quốc phương Tây khác. Mặc dù, Nhật thắng trận trong cuộc chiến tranh Hoa–Nhật vào năm 1894–1895, và nhờ vậy chiếm được Đài Loan và đã đòi được Trung Hoa bồi thường cho một số tiền lớn, Nhật không thể chống cự lại các thế lực phương Tây khác khi Nga, Đức, và Pháp đòi Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông mà họ đã chiếm được trong chiến tranh. Việc này đã dẫn tới sự phát triển quân sự nhanh chóng giữ năm 1895 và 1904.
[[Yamagata Aritomo]]

Lo ngại về an ninh

Những khuynh hướng về quân phiệt càng phát triển mạnh khi các nhà lãnh đạo trong chính phủ nhận thấy sự cần thiết để bảo vệ quốc gia chống lại Nga và các cường quốc phương Tây khác. Quan sát những tiến bộ về kỹ thuật và sự vượt trội về sức mạnh quân sự nói chung và hải quân nói riêng của phương Tây, Nhật đã sợ là sẽ bị xâm chiếm bởi một nước phương Tây như là Nga. Và với một nước Trung Hoa đã suy yếu về quân sự và kinh tế vào cuối thế kỷ thứ 19, các nhà lãnh đạo Nhật sợ rằng, khi các thế lực phương Tây tranh giành lẫn nhau có thể làm chính thể Trung Hoa lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng và như vậy có thể gây ảnh hưởng nặng tới sự an ninh của Nhật Bản. Yamagata Aritomo, được xem như là cha đẻ của quân đội Nhật cấp tiến cổ võ cho sự bành trướng lãnh thổ vì lý do an ninh hơn là muốn chế ngự.
Kiểm soát lãnh thổ của Hàn Quốc tiêu biểu một yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ Nhật chống lại các nước phương Tây, bởi vì Hàn Quốc có cả biên giới với Nga và Trung Hoa. Nhật không nhận ra rằng, họ phải kiểm soát cả bán đảo Liêu Đông nằm phía nam của Mãn Châu để đảm bảo cho việc phòng thủ Hàn Quốc. Mặc dù Nhật đã chiếm được bán đảo Liêu Đông trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật, sự can thiệp của Nga, Đức, và Pháp vào năm 1895 buộc Nhật phải từ bỏ bán đảo này. Nga chiếm cảng Arthur ở đỉnh của bán đảo Liêu Đông vào năm 1898, làm gia tăng cái cảm tưởng không được an ninh của Nhật. Mặc dù liên hiệp quân sự với Anh vào năm 1902 đã cho Nhật một đồng minh trong trường hợp bị tấn công, những tranh chấp liên tục với Nga đã dẫn tới cuộc chiến tranh Nga-Nhật vào năm 1904 - 1905.

Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo ở châu Á
nhỏ|Amaterasu Vào cuối thế kỷ thứ 19, nhiều nhà lãnh tụ Nhật tin tưởng là nước họ có một "vận mạng hiển nhiên" để giải thoát các nước châu Á khác thoát khỏi vòng kìm tỏa của các nước đế quốc phương Tây và để dẫn dắt các quốc gia này tới một sức mạnh và thịnh vượng tập thể. Fukuzawa Yukichi và các nhà văn khác vào cuối thế kỷ 19 ủng hộ sự bành trướng của Nhật ra hải ngoại và chính sách xã hội Darwin, mà đã đề xướng sự sinh tồn của những nền văn hóa mạnh nhất qua một quá trình chọn lọc tự nhiên.
Vào năm 1905, Nhật trở thành quốc gia châu Á đầu tiên mà đã đánh bại một cường quốc phương Tây, đó là Nga trong cuộc chiến tranh Nga–Nhật 1904–1905, đã làm vững lòng tin của Nhật trong sứ mạng của họ dẫn dắt các nước châu Á và khuyến khích các vị lãnh đạo của các quốc gia châu Á khác là họ có khả năng đứng lên chống lại các mưu đồ của các nước đế quốc phương Tây.
Nhiều nhóm và các nhà văn quốc gia quá khích, chẳng hạn như nhóm đảng Hắc Long và Kita Ikki, giành được sự cảm tình càng ngày càng tăng với quan điểm của họ rằng Nhật nên lãnh đạo châu Á để đuổi các thế lực ngoại bang bằng một cuộc chiến tranh chính nghĩa nếu cần thiết. Nhiều nhóm quốc gia quá khích này tin tưởng rằng đạo đức trong sáng của dòng giống Yamato và dòng giống đặc biệt của Nhật Bản là con cháu của nữ thần mặt trời Amaterasu cho quyền người Nhật đóng vai trò lãnh đạo tại châu Á.

Khiêu khích bởi các thế lực phương Tây

Một loạt các hành động ép buộc, khiêu khích bởi các đế quốc phương Tây từ thập niên 1850 - 1930 gây ra những sự bực tức giữa những người dân Nhật. Nhật đã phải ký những hòa ước không bình đẳng với Mỹ, Pháp, Hà Lan, và Nga vào năm 1858 hạn chế chủ quyền của Nhật, như nhường đất ngay trên lãnh thổ của mình. Nó có nghĩa là người ngoại quốc ở Nhật không phải bị xử theo luật pháp của Nhật. Hòa ước hải quân tại hội nghị Washington 1921 - 1922 buộc Nhật phải chấp nhận tỷ lệ về số tàu chiến không có lợi là 5:5:3 theo thứ tự cho Mỹ, Anh và Nhật, và các thế lực phương Tây lại bắt buộc Nhật tại hội nghị Hải quân London chấp nhận với cùng tỷ lệ cho các Tàu tuần dương hạng nặng
Những thành kiến kỳ thị chủng tộc nặng nề đối với người Nhật, thêm vào đối với những người Hoa và những người châu Á khác, đã dẫn tới những việc xô xát nghiêm trọng đối với người Nhật. Vào năm 1919 tại hội nghị hòa bình Paris, các nước phương Tây đã từ chối một lời yêu cầu đơn giản của Nhật chỉ thêm một câu về sự bình đẳng của các chủng tộc trong hiến chương của Hội Quốc Liên. Năm 1905 California đã ban hành luật lệ kỳ thị người Nhật (anti-Japanese legislation). Năm sau đó, hội đồng giáo dục tại San Francisco ra lệnh cho trẻ em Nhật và các nước châu Á khác phải học những trường riêng biệt. Năm 1924, Mỹ ra luật Japanese Exclusion Act để ngăn ngừa không cho dân Nhật di cư tới Mỹ. Hàng loạt những sự lăng mạ quốc tế tới sự tự hào và địa vị của người Nhật đã châm dầu vào những tư tưởng quân phiệt và đế quốc của các lãnh tụ chính quyền và các phần tử quốc gia quá khích Nhật.

Những lợi ích về kinh tế

Bởi vì Nhật lệ thuộc rất nặng về thương mại quốc tế, nên tình trạng kinh tế suy thoái trên thế giới đã bắt đầu vào năm 1929 đã gây ra nhiều thử thách kinh tế lớn lao đối với người dân Nhật. Sự suy thoái lớn lao và lan rộng trên khắp thế giới lại xảy ra ngay sau cuộc động đất Kantô vào năm 1923 gây nhiều thiệt hại và đã làm cho nền kinh tế trì trệ suốt thập niên 1920, đã gây nhiều gian khổ cho nông dân và những người làm việc cho những hãng nhỏ. Bước vào thập niên 1930 những động cơ kinh tế cho đế quốc Nhật trở nên rất mạnh để bảo đảm những thương mại quốc tế được tiếp tục.
Kinh tế phát triển đòi hỏi một thị trường xuất khẩu mạnh cho vải vóc của Nhật cùng các thứ hàng hóa khác. Các nước châu Á khác, đặc biệt là Trung Quốc, đã cung cấp những cơ hội thị trường tốt đẹp nhất cho các sản phẩm xuất khẩu của Nhật. Bởi vậy chính phủ Nhật cần phải đảm bảo là nền thương mại này sẽ không bị gián đoạn bằng cách đạt được các quyền về thương mại và chuyên chở tại Trung Quốc. Kinh tế Nhật cũng đòi hỏi sự nhập khẩu các nguyên liệu để cung cấp cho các hãng xưởng của nền kỹ nghệ.
Những đất đai rộng rãi và những nguồn tài nguyên dồi dào tại Mãn Châu như là sắt và than đá cung cấp một lời giải cho khó khăn của nước Nhật vì quá đông dân và nhu cầu về nguyên liệu cho các kỹ nghệ nặng, mà tập trung vào việc xây dựng những dụng cụ quân sự. Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu vào năm 1931. Nhật sau đó xâm lấn tới những quốc gia khác tại Nam Á để bảo đảm có đầy đủ tài nguyên để duy trì sự tự túc. Thí dụ: Nhật cần dầu hỏa từ công ty Dutch East Indies để cung cấp cho nền kỹ thuật và quân sự của mình.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chủ nghĩa quân quốc** hay còn gọi là **Chủ nghĩa quân phiệt** là tư tưởng của một chính phủ rằng nhà nước nên duy trì khả năng quân sự mạnh mẽ và sử dụng để
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
phải|thumb|Lãnh thổ của [[người Hán từ lưu vực Hoàng Hà đã bành trướng sang các lãnh thổ lân cận.]] **_Chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa_** (giản thể: **中华帝国主义**, phồn thể: **中華帝國主義**, **bính âm: Zhōnghuá dìguó
là một trào lưu tư tưởng - chính trị ở Nhật Bản, được hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân (1868 – 1910) - cuộc cải cách đưa nước Nhật trở thành một
nhỏ|phải|[[Theodor Herzl (1860-1904) được coi là người sáng lập Chủ nghĩa Sion hiện đại. Trong cuốn sách _Der Judenstaat_ vào năm 1896, ông đã hình dung ra việc thành lập một nhà nước Do Thái
thế=|nhỏ|400x400px|Lãnh thổ Nga theo lịch sử **Chủ nghĩa đế quốc Nga** là thuật ngữ chính trị dùng để mô tả chính sách và hoạt động bành trướng lãnh thổ của Nga trong lịch sử. Chủ
**Chủ nghĩa Tân đế quốc** hay **Chủ nghĩa đế quốc mới** () đặc trưng cho thời kỳ bành trướng thuộc địa của các cường quốc châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong cuối thế
**Chủ nghĩa tân quốc xã** () gồm những phong trào chính trị và xã hội hậu Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm làm hồi sinh chủ nghĩa Quốc xã . Cụm từ _chủ nghĩa
**Chủ nghĩa Marx–Lenin** hay **chủ nghĩa Marx–Engels–Lenin** là thuật ngữ chính trị để chỉ học thuyết do Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển kế thừa, được coi
nhỏ| **Chủ nghĩa quân chủ** là một khái niệm chính trị cho rằng chế độ quân chủ là hình thức chính thể lý tưởng nhất. Những người theo chủ nghĩa quân chủ ủng hộ việc
nhỏ|phải|Điêu khắc về chủ nghĩa yêu nước trong Thư viện Quốc hội Mỹ **Chủ nghĩa yêu nước** (hay **chủ nghĩa ái quốc**, hay **lòng yêu nước**, hay **tinh thần yêu nước**) là cảm xúc, tình
**Chủ nghĩa chống đế quốc** hay **chủ nghĩa phản đế** trong chính trị học và quan hệ quốc tế là sự phản đối chủ nghĩa đế quốc hoặc chủ nghĩa thực dân mới. Chủ nghĩa
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
nhỏ|Chiếc [[mũ cối (ở đây là mũ thời Đệ nhị Đế chế Pháp) là một hình tượng đại diện cho chủ nghĩa thực dân.]] **Chủ nghĩa thực dân** (Tiếng Anh: _colonialism_) là hình thái xã
Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1898, trước khi nổ ra [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và Chiến tranh Boer]] Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1800
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Thời đại quân phiệt** là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Flag_of_the_Republican_People's_Party_(Turkey).svg|nhỏ|261x261px|Lục Tiễn **Chủ nghĩa Kemal** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kemalizm_), **chủ nghĩa Atatürk** (_Atatürkçülük, Atatürkçü düşünce_) hay **Lục Tiễn** (_Altı Ok_) là tư tưởng kiến quốc của Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, theo Mustafa
thumb|right|[[Benito Mussolini (trái) và Adolf Hitler (phải), hai thủ lĩnh phát xít.]] **Chủ nghĩa phát xít** là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Territories_of_Dynasties_in_China.gif|nhỏ|350x350px|Sự mở rộng lãnh thổ Trung Hoa qua các thời kỳ. **Chủ nghĩa phục hồi lãnh thổ Trung Hoa** là chủ nghĩa dân tộc mang tính bành trướng trong lịch sử của Trung Quốc, và
**Chủ nghĩa quốc gia xã hội**, hay **Chủ nghĩa quốc xã** (, viết tắt là _Nazismus_) là hệ tư tưởng và những hành động của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa
**Chủ nghĩa dân tộc** (tiếng Anh: _nationalism_) là một quan niệm và ý thức hệ chính trị cho rằng dân tộc nên đồng nhất với nhà nước. Khái niệm này hay được cho là ra
nhỏ|phải|Hai bạn nữ trẻ mặc đồ quân nhân Nga Xô Viết trong dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng vào năm 2014 **Yêu nước xã hội chủ nghĩa** (_Socialist patriotism_) hay **Yêu tổ quốc xã hội
**Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Miến Điện** ( _Pyihtaunghcu Soshallaitsammat Myanmar Ninengantaw_) là quốc gia xã hội chủ nghĩa quản lý Miến Điện trong giai đoạn từ 1974 đến 1988. Thủ tướng
**Dòng thời gian sơ khai** của **chủ nghĩa Quốc xã** bắt đầu từ lúc thành lập cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền (tháng 8 năm 1934). ## Ảnh hưởng từ thế kỷ 19
**Chủ nghĩa Đại Hán** (chữ Hán: **大漢族主義** _Đại Hán tộc chủ nghĩa /_ **漢沙文主義** _Hán sô vanh chủ nghĩa_ tại Trung Quốc đại lục và Đài Loan được gọi là **漢本位** _Hán bản vị_) là
**Chủ nghĩa cơ yếu** hay **chủ nghĩa toàn thống** (tiếng Anh: _fundamentalism_) đề cập đến niềm tin nghiêm ngặt, trung thành tuyệt đối với những nguyên tắc cơ bản, trong thực tế thường nói đến
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Latvia** (; , _Latviyskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), viết tắt **CHXHCNXV Latvia**, là một trong các nước cộng hòa của Liên Xô. Nước cộng hòa được thành lập
nhỏ|300x300px|Mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa của Max Weber **Lịch sử chủ nghĩa tư bản** có nguồn gốc đa dạng và nhiều tranh luận, nhưng chủ nghĩa tư bản chính thức thường được
**Chủ nghĩa tự do cổ điển** là một ý thức hệ chính trị và là một nhánh của chủ nghĩa tự do vận động cho tự do dân sự và tự do chính trị với
thumb|Khẩu hiệu được giăng tại Hà Nội hậu [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ nhị Thế Chiến. "Việt dân chủ Việt quốc" (_Nước Việt-Nam của người Việt-Nam)_]]**Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam**, là một hình
**Chủ nghĩa sô vanh** (tiếng Anh: _chauvinism_) là một chủ nghĩa dân tộc cực đoan cho rằng nhóm hoặc dân tộc của mình là thượng đẳng và chính nghĩa còn những dân tộc hay nhóm
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
**Cộng hòa Công nhân Xã hội chủ nghĩa Phần Lan** (tiếng Nga: _Финляндская Социалистическая Рабочая Республика_, tiếng Phần Lan: _Suomen sosialistinen työväentasavalta_, tiếng Thụy Điển: _Finlands socialistiska arbetarrepublik_) đã được thành lập và tồn tại
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Kirghizia** ( _Kyrgyz Sovettik Sotsialisttik Respublikasy_; _Kirgizskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), còn gọi là **CHXNCNXV Kirghiz**, **CHXNCNXV Kyrgyz**, **Kirghizia Xô viết** hay **Kirghizia**, là một trong những nước
**Dĩ hoa vi trung** (chính văn: 以華為中) là một ý thức hệ được cho khởi phát từ thời Chiến Quốc và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong các nước thuộc vùng văn hóa Đông
**Chủ nghĩa Bolivar** là một tập hợp các học thuyết chính trị mà hiện tại được theo đuổi trong một số nơi ở Nam Mỹ, đặc biệt là Venezuela. Chủ nghĩa Bolivar được đặt tên
Học thuyết **chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước** (cũng được gọi là **stamocap**)) ban đầu là một học thuyết Mác-xít được phổ biến sau Thế chiến II. Lenin đã tuyên bố vào năm
**Xã hội tiến hóa luận** hay **thuyết Darwin xã hội** là bất kỳ lý thuyết xã hội nào xuất hiện ở Anh, Bắc Mỹ và Tây Âu vào những năm 1870, tuyên bố áp dụng
**Giải phóng dân tộc** là một chủ đề trong chủ nghĩa Mác, và đặc biệt là sau các ảnh hưởng của Vladimir Lenin trong việc vận động chống chủ nghĩa đế quốc và giành quyền
**Chính phủ Quân sự Lâm thời Ethiopia xã hội chủ nghĩa** là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Ethiopia được thành lập sau cuộc cách mạng 1974 lật đổ ngôi vua Haile Selassie
**Chủ nghĩa tân phát xít** là một hệ tư tưởng sau Thế chiến II bao gồm các yếu tố quan trọng của chủ nghĩa phát xít. Chủ nghĩa tân phát xít thường bao gồm chủ
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn