✨Chủ nghĩa quân chủ

Chủ nghĩa quân chủ

nhỏ|

Chủ nghĩa quân chủ là một khái niệm chính trị cho rằng chế độ quân chủ là hình thức chính thể lý tưởng nhất. Những người theo chủ nghĩa quân chủ ủng hộ việc thiết lập chế độ quân chủ bất kể vị quân chủ có thể là ai, khác với những người theo chủ nghĩa bảo hoàng thì ủng hộ một cá nhân cụ thể cho tước vị quân chủ. Khái niệm có nội dung trái ngược với chủ nghĩa quân chủ là chủ nghĩa cộng hòa.

Tùy thuộc vào mỗi quốc gia, người theo chủ nghĩa bảo hoàng có thể ủng hộ quyền cai trị của bất kỳ cá nhân nào sẽ ở ngôi, chẳng hạn như vị nhiếp chính đại thần, người đòi hỏi vương vị, hay một người đã bị phế truất khỏi ngai vàng.

Các nền quân chủ hiện hành

Đại đa số các nền quân chủ hiện hành theo chế độ quân chủ lập hiến. Trong chế độ này, quyền lực của vị quân chủ bị hạn chế bởi hiến pháp thành văn và bất thành văn; tuy vậy ta không nên nhầm lẫn chế độ quân chủ lập hiến với chế độ cộng hòa quý tộc, trong đó vị quân chủ không nắm thực quyền, can dự rất ít vào công việc của chính phủ và gần như không hoạt động chính trị. Một số nền quân chủ lập hiến hiện hành trên thế giới có vị quân chủ hoạt động chính trị cách tích cực hơn hẳn những vị quân chủ của các quốc gia khác. Chẳng hạn, Quốc vương Bhumibol Adulyadej của Thái Lan (trị vì 1946–2016) từng đóng vai trò quan trọng trong nghị trình chính trị của quốc gia cũng như trong nhiều cuộc đảo chính quân sự. Tương tự, Quốc vương Mohammed VI của Maroc từng nắm giữ quyền lực đáng kể nhưng không tuyệt đối.

Thân vương quốc Liechtenstein là một nền quân chủ có tính dân chủ và nhân dân nước này đã tự nguyện trao phó thêm quyền lực cho vị quân chủ của mình trong vài năm trở lại đây.

Bên cạnh các quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến, vẫn còn một số nhỏ các quốc gia theo chế độ quân chủ tuyệt đối. Phần lớn trong số đó là các nền quân chủ Hồi giáo của người Ả Rập và lấy việc sản xuất dầu mỏ làm ngành kinh tế chính, thí dụ Ả Rập Xê Út, Bahrain, Qatar, Oman và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Một số nền quân chủ tuyệt đối hùng mạnh khác có thể kể đến như Brunei Darussalam và Eswatini.

Triết học chính trị

Chế độ quân chủ tuyệt đối đứng ở vị thế đối lập với chủ nghĩa vô trị; kể từ thời kỳ Khai Sáng, chế độ này còn đối lập với chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội.

Ông Otto von Habsburg từng lên tiếng ủng hộ một hình thức của chế độ quân chủ lập hiến trong đó quyền tư pháp tối cao được đặt ở vị trí cao nhất, sử dụng định chế thế tập, và khi trục trặc trong tư cách của người kế vị xảy ra thì tòa án đảm bảo công tác hòa giải.

Phi đảng phái

Nhà khoa học chính trị người Anh Vernon Bogdanor làm chứng về tính đúng đắn của chế độ quân chủ khi cho rằng trong một nền quân chủ, vị nguyên thủ quốc gia là một người phi đảng phái, độc lập với người đứng đầu chính phủ, không đại diện cho chủ trương một đảng phái cụ thể nào nhưng đại diện cho toàn thể nhân dân. Ông Bogdanor cũng nhận thấy rằng nền quân chủ có thể hỗ trợ cách tích cực trong vai trò hiệp nhất toàn thể nhân dân của một quốc gia đa dân tộc và dẫn chứng rằng: "Ở nước Bỉ, thỉnh thoảng tôi nghe nói rằng nhà vua là người Bỉ duy nhất tại nước này, trong khi những người khác thì hoặc là người Vlaming, hoặc là người Wallon." Ông cũng nhận thấy rằng vị quân chủ của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland có thể được coi là nguyên thủ của mỗi một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp (Anh, Bắc Ireland, Scotland và xứ Wales) mà không phải của riêng một quốc gia cụ thể nào.

Lợi ích riêng

Triết gia người Anh Thomas Hobbes cho rằng "lợi ích riêng của nền quân chủ là một với lợi ích quần chúng nhân dân. Tất cả tài sản, quyền bính và sự hài hước của một vị quân chủ chỉ có thể có được nhờ của cải, sức lực và danh tiếng của nhân dân. Một vị nguyên thủ quốc gia do nhân dân bầu lên thường có động cơ gia tăng tài sản của mình để sử dụng sau khi mãn nhiệm, trong khi đó một vị quân chủ không có lý do gì để tham ô vì như thế vị quân chủ ấy tự chà đạp lên lợi ích của mình."

Cố vấn khôn ngoan

Triết gia Thomas Hobbes cho rằng "vị quân chủ có thể được nghe lời khuyên khôn ngoan trong bí mật, điều mà một tập thể không có được. Những người cố vấn cho tập thể thường giỏi làm giàu cho bản thân thay vì học rộng hiểu nhiều; thường làm công tác cố vấn ngang qua những bài diễn thuyết dài, khiến mọi người muốn bắt tay vào làm việc gì đó nhưng lại không có khả năng chỉ huy mọi người trong công cuộc chung: họ khiến con người cảm động không bằng sự khai sáng mà bằng ngọn lửa nhiệt tâm. Những kẻ như vậy là điểm yếu của tập thể".

Chủ nghĩa nhiệm kỳ dài

Triết gia Thomas Hobbes cho rằng các quyết định của vị quân chủ không chịu bất kỳ một mâu thuẫn nào ngoại trừ bản tính con người; còn trong các tập thể thì mâu thuẫn xảy ra từ trong nội bộ. Vì trong tập thể ấy, chỉ cần một vài người có quan điểm ngược với số đông vắng mặt một hôm hay là siêng năng có mặt một hôm thì "trong ngày hôm nay, mọi chuyện đã thực hiện ngày hôm qua trở về con số không."

Giảm thiểu nội chiến

Triết gia Thomas Hobbes cho rằng một vị quân chủ không thể bất đồng với chính mình vì lợi ích cá nhân hay vì đố kỵ, tuy nhiên trong một tập thể thì bất đồng hoàn toàn có thể xảy ra, thậm chí có thể châm ngòi cho một cuộc nội chiến.

Tự do

Được thành lập vào năm 1943, Liên minh Quân chủ chủ nghĩa Quốc tế luôn tìm cách thúc đẩy việc thiết lập chế độ quân chủ và nhấn mạnh rằng chế độ quân chủ củng cố quyền tự do của quần chúng nhân dân, ngay cả khi nền quân chủ ấy theo chế độ dân chủ hay độc tài bởi vì theo định nghĩa, vị quân chủ không phải chịu ơn các chính trị gia.

Nhà văn người Mỹ gốc Anh Matthew Feeney theo chủ nghĩa tự do cá nhân lập luận rằng các nền quân chủ lập hiến tại châu Âu "đã thành công phần nào trong việc né tránh các hình thức chính trị cực đoan"—nhất là chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chế độ độc tài quân sự—"một phần là do các nền quân chủ kiểm soát được ý chí của các chính trị gia theo chủ nghĩa dân túy" nhờ bản chất của mình là đại biểu cho những phong tục và truyền thống lâu đời. Ông Feeney nhận thấy rằng:

Những nền quân chủ ở châu Âu, ví dụ như Đan Mạch, Bỉ, Thụy Điển, Hà Lan, Na Uy, và Anh, đã và đang cai trị các quốc gia thuộc hàng ổn định nhất, thịnh vượng nhất và tự do nhất trên thế giới.
Nhà bác học Erik von Kuehnelt-Leddihn lại chọn một cách tiếp cận khác khi biện bác rằng tự do và bình đẳng là hai trạng thái mâu thuẫn nhau. Vì lẽ đó, ông lập luận rằng những nỗ lực khuếch trương bình đẳng xã hội bằng con đường bãi bỏ chế độ quân chủ cuối cùng lại làm giảm bớt quyền tự do của công dân. Ông cho rằng một xã hội chỉ có thể đạt trạng thái bình đẳng khi quyền tự do bị hạn chế, vì con người vốn đã không bình đẳng và có thứ bậc. Ông cũng cho rằng con người dưới chế độ quân chủ thì tự do hơn so với con người dưới chế độ cộng hòa dân chủ, vì chế độ cộng hòa dân chủ dễ biến tướng thành chế độ độc tài ngang qua luật pháp của số đông. Trong bài báo , ông viết rằng:
Không thể phủ nhận rằng Quốc hội Mỹ hay Nghị viện Pháp có nhiều quyền lực trên đất nước của mình đến nỗi có thể khiến Louis ⅩⅣ của Pháp hay George Ⅲ của Anh ghen tị nếu hai vị ấy còn sống tới ngày nay. Hai định chế này không chỉ có quyền cấm chỉ, mà còn có thể buộc người ta kê khai thuế thu nhập, ghi danh quân dịch, thi hành cưỡng bức giáo dục, lấy dấu điểm chỉ của những công dân vô tội, bắt buộc xét nghiệm máu tiền hôn nhân—đến cả những nền quân chủ tuyệt đối của thế kỷ 17 cũng chẳng dám mang ra thi hành bất kỳ một biện pháp nào trong số các biện pháp mang tính toàn trị này.
Ông Hans-Hermann Hoppe cũng lập luận rằng chế độ quân chủ đóng vai trò trợ lực trong việc gìn giữ quyền tự do cá nhân cách hữu hiệu hơn so với chế độ dân chủ.

Niềm khao khát bẩm sinh đối với thứ bậc

Trong bài tiểu luận "Equality" được đăng trên tờ The Spectator vào năm 1943, tác giả người Anh C. S. Lewis đã chỉ trích chủ nghĩa quân bình cũng như luận điệu ủng hộ bãi bỏ chế độ quân chủ của nó khi cho rằng học thuyết này đi ngược lại với căn tính con người. Ông viết rằng:

Phản ứng của con người đối với chế độ quân chủ tựa tựa như một cuộc kiểm chứng. Chế độ quân chủ có thể dễ dàng bị "lật tẩy"; nhưng hãy nhìn vào nét mặt và để ý kỹ giọng điệu của họ của những kẻ lật tẩy. Đây là những kẻ mà gốc rễ của mình tại vườn Địa Đàng đã bị cắt đứt: không một giọng văn phức điệu mang lời đồn đại, hay một bài nhảy, có thể chạm đến họ—họ là những kẻ mà đá cuội rải thành hàng cho họ bước lên còn đẹp đẽ hơn cả một cái vòm…Ở nơi mà con người ta không được phép tôn vinh một vị quân vương thì thay vào đó, những kẻ này tôn vinh các triệu phú, vận động viên thể thao hay minh tinh điện ảnh: kể cả những con điếm và những tên giang hồ có tiếng cũng được tôn vinh. Vì căn tính thiêng liêng cũng được cho ăn như căn tính thể xác; nếu ta không cung cấp chất dinh dưỡng cho nó, nó sẽ tự nạp chất độc vào một cách nhanh chóng.

Trách nhiệm chính trị

Nhà khoa học chính trị Petra Schleiter của Viện Đại học Oxford và ông Edward Morgan-Jones từng viết rằng trong một nền quân chủ, việc bầu cử diễn ra thường xuyên hơn so với các phương pháp không thông qua tuyển cử.

Các tác phẩm đáng chú ý

Sau đây là các tác phẩm ủng hộ chế độ quân chủ đáng chú ý:

  • Abbott, Tony (1995). The Minimal Monarchy: And Why It Still Makes Sense For Australia

  • Alighieri, Dante (c. 1312). De Monarchia

  • Aquinas, Thomas (1267). De Regno, to the King of Cyprus

  • Auslin, Michael (2014). America Needs a King

  • Balmes, Jaime (1850). European Civilization: Protestantism and Catholicity Compared in their Effects on the Civilization of Europe

  • Bellarmine, Robert (1588). De Romano Pontifice, On the Roman Pontiff

  • Bodin, Jean (1576). The Six Books of the Republic

  • Bogdanor, Vernon (1997). The Monarchy and the Constitution

  • Bossuet, Jacques-Bénigne (1709). Politics Drawn from the Very Words of Holy Scripture

  • Charles I của Anh (1649). Eikon Basilike

  • Coulombe, Charles A. (2016). Star-Spangled Crown: A Simple Guide to the American Monarchy

  • Chateaubriand, François-René de (1814). Of Buonaparte, and the Bourbons, and of the Necessity of Rallying Round Our Legitimate Princes

  • Cram, Ralph Adams (1936). Invitation to Monarchy

  • Filmer, Robert (1680). Patriarcha

  • Hobbes, Thomas (1651). Leviathan

  • Hermann-Hoppe, Hans (2001). Democracy: The God That Failed

  • — (2014). From Aristocracy to Monarchy to Democracy: A Tale of Moral and Economic Folly and Decay

  • James VI và I (1598). The True Law of Free Monarchies

  • — (1599). Basilikon Doron

  • Jean, Bá tước Paris (2009). Un Prince Français

  • Kuehnelt-Leddihn, Erik von (1952). Liberty or Equality: The Challenge of Our Times

  • — (2000). Monarchy and War

  • Maistre, Joseph de (1797). Considerations on France

  • Giáo tông Pius VI (1793). Pourquoi Notre Voix

  • Scruton, Roger (1991). A Focus of Loyalty Higher Than the State

  • Ségur, Louis Gaston Adrien de (1871). Vive le Roi!

  • Whittle, Peter (2011). Monarchy Matters

Ủng hộ chế độ quân chủ

Tại các nền quân chủ hiện hành

Chủ nghĩa chống quân chủ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thời đại quân phiệt** là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Ngày Âu Châu tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Quốc xã**, còn được biết tới như **Ngày dải băng Đen** tại một vài quốc gia, mà được cử hành
[[Eduard Bernstein (1850-1932), người khởi xướng việc xét lại học thuyết Marx.]] Trong chủ nghĩa Marx, từ **chủ nghĩa xét lại** được dùng để nói tới những ý tưởng, nguyên tắc hay lý thuyết khác
nhỏ|Josef Stalin, ca. 1942 **Chủ nghĩa Stalin** là từ được dùng khi nói tới lý thuyết và thực hành của Stalin tạo ra trong thời kỳ lãnh đạo của Josef Stalin (1927–1953) ở Liên Xô
nhỏ|334x334px|Đài tưởng niệm Chiến tranh thế giới thứ hai - Đài tưởng niệm Kumanovo. Kỷ niệm phong trào Đảng phái Nam Tư đã trở thành một trong những thành phần chính của văn hóa Macedonia
là một trào lưu tư tưởng - chính trị ở Nhật Bản, được hình thành trong thời kỳ Minh Trị Duy Tân (1868 – 1910) - cuộc cải cách đưa nước Nhật trở thành một
**Chủ nghĩa duy vật lịch sử** là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
thumb|right|Các lãnh đạo của những người theo chủ nghĩa Trotsky [[Đối lập Cánh tả ở Moscow, 1927. Ngồi: Leonid Serebryakov, Karl Radek, Leon Trotsky, Mikhail Boguslavsky, và Yevgeni Preobrazhensky. Đứng: Christian Rakovsky, Yakov Drobnis, Alexander
**Quân phiệt Lương châu** là lực lượng quân phiệt cát cứ cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trong những lực lượng ly khai nhà Đông Hán sớm nhất, mở
nhỏ|[[Tuyên bố của Dunmore tuyên bố thiết quân luật ở Thuộc địa Virginia vào ngày 27 tháng 5 năm 1775, vài tháng sau khi bắt đầu Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ]] **Thiết quân luật**
**Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ** (, Ardchilsan Khuvĭsgal, _Cách mạng Dân chủ_) là một cuộc cách mạng chống chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ thuyết cộng sản chủ nghĩa nhằm
**Biến loạn Quý Dậu** (癸酉之变), hay **Khởi nghĩa Thiên Lý Giáo** (天理教起义), **Bát Quái Giáo khởi loạn** (八卦教之乱) là một cuộc khởi nghĩa nông dân của giáo phái Thiên Lý năm Gia Khánh thứ 18
**An quốc quân** () là một liên minh quân phiệt do Trương Tác Lâm đứng đầu, và là nhánh quân đội của Chính phủ Bắc Dương, Trung Hoa Dân Quốc. Lực lượng này được thành
**Chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia** ( _Sotsializm v odnoi strane_) là một lý thuyết đưa ra bởi Joseph Stalin vào năm 1924, phát triển bởi Nikolai Bukharin vào năm 1925 và cuối
Trong lịch sử chính trị Pháp, **chủ nghĩa Bonaparte** (tiếng Pháp: _Bonapartisme_) mang hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, nó dùng để ám chỉ những người có mục đích phục hưng Đế chế Pháp dưới triều
nhỏ|250x250px|Lãnh thổ các nhóm quân phiệt chính tại Trung Quốc năm 1925 Thời kỳ quân phiệt tại Trung Quốc được xem là bắt đầu từ năm 1916, sau cái chết của Viên Thế Khải, và
[[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện]] **Quân Bắc Dương** (Tiếng Trung: _北洋軍_; Bính âm: _Běiyáng-jūn_) là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào
**Đạo quân Quan Đông** (; Hán-Việt: Quan Đông quân) là một trong các tổng quân (_sōgun_) của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của lục quân Nhật, được
**Bộ Lục quân** () là một bộ nội các của Đế quốc Nhật Bản, thành lập năm 1872, giải thể năm 1945. Người đứng đầu Bộ Lục quân là Bộ trưởng Bộ Lục quân (陸軍大臣),
phải|nhỏ|300x300px| Tổng hành dinh Hải quân Đế quốc Nhật Bản, những năm 1930 là cơ quan tối cao trong nội bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Cơ quan này phụ trách công việc phát
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
thumb|right|Thuận chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: [[Søren Kierkegaard, Fyodor Dostoevsky, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche.]] **Chủ nghĩa hiện sinh** hay **thuyết hiện sinh** là luồng tư tưởng triết học của một nhóm
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
thumb|_Eduskunta_, quốc hội của [[Đại công quốc Phần Lan (lúc đó là một phần của Nga), có quyền bầu cử phổ thông vào năm 1906. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ có thể
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Chủ nghĩa cộng sản vô trị**, **chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ** () hay **chủ nghĩa cộng sản tự do** là một học thuyết của chủ nghĩa vô trị, chủ trương thủ tiêu nhà
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Chủ nghĩa vị lợi**, hay **chủ nghĩa công lợi** còn gọi là **thuyết duy lợi** hay **thuyết công lợi** (tiếng Anh: _Utilitarianism_) là một triết lý đạo đức, một trường phái triết học xã hội
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Hệ thống xã hội chủ nghĩa** là thể chế chính trị mà được các nước có các đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyên bố sẽ đưa đất nước và dân tộc mình đi
**Dân chủ** là một phương pháp ra quyết định tập thể trong đó mọi thành viên đều có quyền ngang nhau khi tham gia ra quyết định. Dân chủ cũng được hiểu là một hình
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Tư tưởng Juche** (Hangul: 주체); (phát âm trong tiếng Triều Tiên) (主體: âm Hán Việt: Chủ thể) hay **Tư tưởng Kim Nhật Thành** là một hệ tư tưởng chính thức của Nhà nước Cộng hòa
nhỏ|Chiếc [[mũ cối (ở đây là mũ thời Đệ nhị Đế chế Pháp) là một hình tượng đại diện cho chủ nghĩa thực dân.]] **Chủ nghĩa thực dân** (Tiếng Anh: _colonialism_) là hình thái xã
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
**Chủ nghĩa xã hội thị trường** là một kiểu hệ thống kinh tế trong đó nền kinh tế thị trường được điều khiển bởi một bộ máy kế hoạch hóa tập trung nhằm nâng cao