✨Chiến dịch Đông Tiến II

Chiến dịch Đông Tiến II

Chiến dịch Đông Tiến II là một chiến dịch của Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam do Hoàng Cơ Minh chỉ huy. Hành quân từ Thái Lan qua Lào để xâm nhập vào Việt Nam nhằm thực hiện âm mưu bạo loạn, lật đổ chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên đường xâm nhập qua lãnh thổ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào để vào Việt Nam, Hoàng Cơ Minh cùng thuộc cấp đã bị các lực lượng vũ trang cách mạng Lào phát hiện, truy đuổi và bắn bị thương tại vùng Bản Pon, tỉnh Saravane. Hoàng Cơ Minh tự sát và cuộc xâm nhập kết thúc thất bại.

Mục tiêu

Chiến dịch Đông Tiến I tổ chức hồi tháng 8 năm 1986 bị thất bại. Đông tiến I bị cộng đồng người Việt hải ngoại cho là âm mưu bịp bợm vì thực chất của Chiến dịch này chỉ là đưa một nhóm người về vùng rừng núi biên giới tiếp giáp giữa Thái Lan và Lào, dưới vỏ bọc công nhân liên doanh lâm nghiệp, và sau đó cho mặc quần áo rằn ri, vai đeo balô, tay cầm súng như quân nhân để quay phim, chụp ảnh, đưa về Hoa Kỳ tuyên truyền rằng Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam đã thành lập được nhiều "khu chiến" bên trong lãnh thổ Việt Nam. Sau thất bại này, Hoàng Cơ Minh, chủ tịch Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam nhận ra rằng kế hoạch đang có nguy cơ đổ bể.

Hệ thống "phở Hòa" – là bộ phận tạo nguồn tài chính của Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, có chi nhánh trên nhiều tiểu bang của nước Hoa Kỳ, không còn được Việt kiều ủng hộ. Nội bộ xuất hiện sự chống đối.

Nhằm tạo tiếng vang và lấy lại uy tín, Hoàng Cơ Minh tiến hành Chiến dịch Đông Tiến II vào tháng 7 năm 1987.

Chuẩn bị

Đầu tháng 7 năm 1987, Hoàng Cơ Minh cho di chuyển khoảng 130 người (cả số đang còn nằm lại ở biên giới Thái Lan-Lào sau Chiến dịch Đông Tiến I và một số từ Hoa Kỳ sang) đến một khu rừng thuộc tỉnh Ubon Ratchathani, Thái Lan và móc nối với thổ phỉ người Lào để thuê họ dẫn đường vượt qua đất Lào.

Lực lượng

Nhóm gồm 130 tên, chia làm 4 bộ phận. Dưới quyết đoàn là dân đoàn gồm 9-10 tên. Lực lượng là Người Việt từ Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Đức và được Hoàng Cơ Minh tuyển mộ đa số là các cựu binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở trại tị nạn Sikhio (Thái Lan).

Quyết đoàn Tiền Phương: Quyết đoàn trưởng: Phan Thanh Phương Quân số: 40 người *Nhiệm vụ: mở đường cho cuộc hành quân

Quyết đoàn Bắc Bình: Quyết đoàn trưởng: Lê Đình Bảy Quân số: 29 người *Nhiệm vụ: đi giữa đội hình hành quân

Bộ chỉ huy: Hoàng Cơ Minh: Chủ tịch Mặt trận Nguyễn Huy: Ủy viên Mặt trận Trần Khánh: Ủy viên Mặt trận Võ Hoàng: Ủy viên Mặt trận *Một số chủ chốt khác

Quyết đoàn Anh Dũng: Quyết đoàn trưởng: Khu Xuân Hưng Quân số: 40 người *Nhiệm vụ: Chặn hậu cho đội hình hành quân

Trang bị

Vũ khí: Các quyết đoàn trang bị cá nhân như súng AK, M16, lựu đạn, Mìn M18A1 Claymore và một số khẩu B40, B41, vài máy bộ đàm tầm hoạt động khoảng 3 km được mua từ Thổ phỉ Lào và từ các chợ trời vũ khí dọc theo biên giới Lào-Thái Lan. Riêng Bộ chỉ huy còn được trang bị thêm 2 khẩu Súng phóng lựu M79.

Quân phục: Quần áo, giày dép, mũ nón họ sử dụng cũng vậy, hầu hết đều mua ở chợ trời biên giới với đủ chủng loại.

Lương thực-tài chính: mỗi người mang trên lưng 20 – 30 kg, gồm: gạo, mì ăn liền, mắm muối, nồi niêu xoong chảo. Bên cạnh đó, các quyết đoàn còn được cấp một ít tiền kíp để mua lương thực nếu đi ngang thôn bản người Lào. Riêng các quyết đoàn trưởng và các ủy viên mặt trận được giao cho mỗi người từ 2 đến 5 lượng vàng, một số Đô la Mỹ và Baht Thái để hối lộ Quân đội Nhân dân Lào nếu bị bắt.

Kế hoạch

Các quyết đoàn sẽ vượt sông Mê Kông, sang tỉnh Saravane, Nam Lào rồi từ đó, dưới sự dẫn đường của 20 thổ phỉ Lào, lực lượng sẽ đi về tỉnh Sekong và xâm nhập khu vực ngã ba biên giới, thuộc tỉnh Kon Tum, Việt Nam. Tại đây, các quyết đoàn sẽ lập căn cứ, tiến hành phục kích xe cộ, đặt mìn phá cầu, tấn công các đồn biên phòng Việt Nam để gây tiếng vang, tạo cơ hội cho lực lượng ở lại bên Hoa Kỳ kêu gọi Việt kiều ủng hộ.

Tiến hành

23 giờ, ngày 18 tháng 7 năm 1987, các quyết đoàn lên đường, đi đầu là Quyết đoàn Tiền Phương. Hành quân đến điểm tập kết là bờ sông Mê Kông giữa biên giới Thái Lan-Lào. Đến nơi, Hoàng Cơ Minh còn chờ đợi đoàn đặc nhiệm do Nguyễn Quang Phục (biệt danh: Hải "xăm") chỉ huy, gồm 7 người dày dạn kinh nghiệm đều từng thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nhưng Nguyễn Quang Phục bị sốt rét nên đoàn này không tới được điểm tập kết.

Tối ngày 20 tháng 7, các quyết đoàn nhắm hướng sông Mê Kông thẳng tiến. Tại đây, nhóm thổ phỉ Lào đã thuê sẵn mấy chiếc thuyền máy để vượt sông. Sau khi vượt sông các quyết đoàn nghỉ ngơi một đêm.

Sáng 21 tháng 7, các quyết đoàn tiếp tục hành quân đến 9 giờ thì xuất hiện một chiếc máy bay trinh sát của Không quân Lào sau đó biến mất, làm Hoàng Cơ Minh nghi ngờ về tính bí mật của cuộc xâm nhập. Đến tối, các quyết đoàn nghỉ chân tại một con suối lớn.

Sáng 22 tháng 7, các quyết đoàn khởi hành sớm và phải vượt qua một khu vực địa hình khá trống trải. Đến 8 giờ ở cuối đội hình hành quân, Quyết đoàn Anh Dũng bất ngờ có cuộc chạm súng ngắn với Quân đội Nhân dân Lào, cả hai bên không có thương vong. Nhưng cuộc xâm nhập đã không còn bí mật. Đến 16 giờ, các quyết đoàn nghỉ qua đêm tại một triền núi, một số dân đoàn thuộc Quyết đoàn Anh Dũng đi kiếm thức ăn trong rừng thì lại xảy ra chạm súng với một toán Quân đội Nhân dân Lào bí mật bám theo và bất ngờ tập kích và bắt sống được một dân đoàn. Hoàng Cơ Minh ra lệnh tiếp tục di chuyển đến tối khi trinh sát không còn thấy dấu hiệu đuổi theo của Quân đội Nhân dân Lào thì đội hình dừng lại nghỉ ngơi thì lại bị bất ngờ tấn công bằng B40 vào giữa đội hình. Lực lượng xâm nhập không hề biết rằng ngay từ khi vượt sông Mê Kông thì đã bị Quân đội Nhân dân Lào phát hiện và cử một toán nhỏ bám theo, trinh sát tìm cách bắt tù binh đưa về khai thác, điều tra.

Ngày 27 tháng 7, các quyết đoàn vẫn chưa tới được Sekong. Vì thiếu người dẫn đường, sự di chuyển dựa vào những tấm bản đồ do quân đội Mỹ vẽ từ năm 1972. Vì thế, có những đoạn chỉ cần lội xuống khe rồi đi vòng chừng 6 tiếng là đã vượt qua được dãy núi, nhưng họ lại phải leo trèo suốt 2 ngày. Lương thực càng lúc càng cạn, bữa cơm 1 phần gạo thì có đến 3 phần củ rừng. Quần áo không giặt nên bốc mùi hôi hám. Hầu hết đều bị ghẻ do muỗi đốt, vắt cắn.

Ngày 29 tháng 7, lại có tiếng súng ở cuối đội hình. Sau khi bị tập kích, lực lượng xâm nhập được lệnh đi nhanh hơn nhưng tốc độ xem ra cũng chỉ được khoảng 3 km mỗi giờ. Đến trưa đột ngột tiếng súng cối vang lên giữa đội hình Quyết đoàn Anh Dũng. Lúc này, lực lượng xâm nhập đang ở trên một đỉnh núi. Xuống đến chân núi, tiếng súng im cũng và Quyết đoàn Anh Dũng biến mất (Quyết đoàn trưởng Khu Xuân Hưng dẫn cả quyết đoàn chạy trốn về Thái Lan). Quyết đoàn Bắc Bình phải làm nhiệm vụ chặn hậu. Lực lượng tiếp tục di chuyển thì khi điểm lại quân số, biết được quyết đoàn trưởng của Tiền Phương và Bắc Bình đã bỏ trốn.

Ngày 2 tháng 8, những cuộc đột kích của Quân đội Nhân dân Lào diễn ra thường xuyên hơn, bất kể sáng sớm hay nửa khuya, giữa trưa hay xế chiều. Lực lượng Lào không còn là một toán nhỏ, mà là những đơn vị lớn, được súng cối 61, 82 mm, sơn pháo 75 mm yểm trợ. Lực lượng xâm nhập chỉ còn biết bỏ trốn chứ không chống trả. Trong những ngày cuối cùng của "Chiến dịch Đông tiến II", lực lượng xâm nhập chỉ còn chưa đầy 40 người.

Sáng 24 tháng 8, lực lượng xâm nhập tiến gần đến bản Phón, tỉnh Saravane, từ trên đỉnh núi nhìn xuống thấy mấy nóc nhà, lực lượng cử 2 dân đoàn viên vào bản mua lương thực hoặc cướp. Xuống núi mới đi chưa được 50 mét, một loạt AK vang lên. Cùng lúc, từ nhiều hướng, cả tiếng AK lẫn Súng cối, Sơn pháo vang lên và thêm tiếng gọi hàng của Quân đội Nhân dân Lào nhắm vào các quyết đoàn. Khoảng 40 phút sau, tiếng súng im hẳn, các quyết đoàn có 6 chết, 3 bị thương và một số bỏ chạy. Trong đó, Hoàng Cơ Minh bị thương cánh tay và Trần Khánh, nhân vật đứng thứ hai trong cuộc xâm nhập (từng là trung tá Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa) chết. Cả toán hoang mang trú ẩn trong một hang đá.

9 giờ, 28 tháng 8, Hoàng Cơ Minh ra lệnh lên đường, tiếp tục di chuyển qua một ngon núi. Đi chừng 1 km thì Quân đội Nhân dân Lào tiếp tục nổ súng và tràn xuống tấn công. Hoàng Cơ Minh và các thành viên chủ chốt còn lại của bộ chỉ huy tự sát, số dân đoàn viên còn lại bị Quân đội Nhân dân Lào bắn chết và bắt sống. Chiến dịch Đông Tiến II chính thức chấm dứt và thất bại,

Kết quả

Sáng ngày 1 tháng 12 năm 1987, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên xét xử nhóm xâm nhập của Hoàng Cơ Minh do Chính phủ Lào chuyển giao vì mục tiêu của lực lượng là xâm nhập, bạo loạn lật đổ Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhóm đã lĩnh án từ 3 năm tù đến chung thân.

Tổng cộng trong số 130 người xâm nhập, có 83 người chết. 19 người bị bắt, số còn lại bỏ trốn khi đang trên đường xâm nhập.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Đông Tiến II** là một chiến dịch của Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam do Hoàng Cơ Minh chỉ huy. Hành quân từ Thái Lan qua Lào để xâm
**Chiến dịch Đông Bắc II** là một chiến dịch quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mở ra nhằm mục tiêu phân tán lực lượng của Pháp, giành lấy chiến thắng chiến lược
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng** là một chiến dịch tấn công của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đánh vào tuyến phòng thủ đường 4 và lực lượng chiếm đóng của
**Junction City** (thường phiên âm thành _Gian-xơn Xi-ty_) là một chiến dịch kéo dài 82 ngày của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhắm vào các căn cứ của lực lượng
**Chiến dịch Chenla II** (nghĩa là _Chiến dịch Chân Lạp II_) là một chiến dịch quân sự lớn do Quân lực Quốc gia Khmer (về sau gọi là FANK) thực hiện trong cuộc nội chiến
**Chiến dịch Ý** là chiến dịch tấn công dài và oanh liệt nhất do khối Đồng Minh phương Tây thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch kéo dài từ ngày 10
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Chiến dịch Đường 14 – Phước Long** là trận đụng độ quân sự lớn giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa diễn ra trên địa bàn tỉnh
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Tây Carpath** là một chiến dịch tấn công chiến lược do quân đội Liên Xô tiến hành nhằm tấn công vào tuyến phòng thủ của quân đội Đức Quốc xã tại miền Tây
**Chiến dịch Transom** là một loạt các cuộc ném bom nhằm vào các căn cứ của Đế quốc Nhật Bản trên đảo Surabaya, Java thực hiện bởi không quân Mỹ vào Anh vào ngày 17
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Chiến dịch Tunisia** (hay còn gọi là **Trận Tunisia**) là một loạt trận đánh diễn ra tại Tunisia trong Chiến dịch Bắc Phi thời chiến tranh Thế giới thứ hai, giữa các lực lượng Phe
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến dịch Plei Me** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch do Mặt trận Tây Nguyên thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam phát động vào tứ giác Plei Me-Bàu Cạn-Đức
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Chiến dịch Compass** là hoạt động quân sự lớn đầu tiên của phe Đồng Minh trong Chiến dịch Sa mạc Tây thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Các lực lượng Anh và Khối Thịnh
**Chiến dịch Matterhorn** là một chiến dịch quân sự của Không lực Hoa Kỳ trong Thế chiến II bằng các cuộc ném bom chiến lược nhằm vào lực lượng Nhật Bản thực hiện bởi những
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Chiến dịch Linebacker** là chiến dịch do Hoa Kỳ thực hiện trong Chiến tranh Việt Nam nhầm giải tỏa áp lực tiến công của Quân giải phóng trong Chiến dịch hè 1972. Thực hiện bằng
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế
**Chiến dịch Union II** là nhiệm vụ tìm và diệt tại Thung lũng Quế Sơn, Quảng Nam, Việt Nam Cộng hòa do Trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến (TQLC) thực hiện từ ngày 26
**Chiến dịch CQ-88** (tên đầy đủ là **Chiến dịch Chủ quyền 1988**) là một chuỗi các hoạt động quân sự trên biển Đông do Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam tiến hành từ
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch Vilnius** là đòn phát triển tiếp tục tấn công phát huy chiến quả sau Chiến dịch Minsk của Phương diện quân Byelorussia 3 (Liên Xô) chống lại các lực lượng Đức Quốc xã
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Chiến dịch Thượng Lào** (13.4-18.5.1953) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathet Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào)
**Chiến dịch Balkan** () là các cuộc tấn công của Phe Trục nhằm vào hai vương quốc Hy Lạp và Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch bắt đầu với cuộc
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên