✨Chiến dịch Matterhorn
Chiến dịch Matterhorn là một chiến dịch quân sự của Không lực Hoa Kỳ trong Thế chiến II bằng các cuộc ném bom chiến lược nhằm vào lực lượng Nhật Bản thực hiện bởi những chiếc máy bay B-29 Superfortress xuất phát từ Ấn Độ và Trung Quốc. Mục tiêu bao gồm căn cứ trên chính quốc Nhật cũng như ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Matterhorn trong tiếng Anh có nghĩa là một ngọn núi hiểm trở khó vượt qua.
Lên kế hoạch
Kế hoạch đặt các máy bay ném bom Superfortresses in ở Trung Quốc được đưa ra đầu tiên tại hội nghị Casablanca vào tháng 1-1943. Trong khi kế hoạch đang được cân nhắc, thì Hội đồng chỉ huy Mỹ-Canada, gặp nhau ở Quebec vào tháng 8, ấn định những bước đi tiếp theo ở trung tâm Thái Bình Dương bao gồm việc bao bây quần đảo Mariana. Từ nơi này các máy Mỹ có thể thực hiện các cuộc hành trình ngắn hơn đến Tokyo cũng như quân Mỹ dễ dàng tiếp tế cho bất cứ nơi nào trên Thái Bình Dương. Tháng 9, hội đồng chỉ huy kết luận rằng các máy bay B-29 ở Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn vì vấn đề hậu cần. Tuy nhiên, Tổng thống Franklin D. Roosevelt thiên về việc để các máy bay ném bom cất cánh từ Trung Quốc vì ông không thể đợi cho đến khi quần đảo Mariana bị chiếm để thực hiện các cuộc ném bom về Nhật Bản và một lẽ muốn giúp đỡ các lực lượng của Trung Quốc chống lại Nhật. Tại hội nghị Sextant ở Cairo vào cuối năm 1943, ông đã hứa với Tưởng Giới Thạch rằng các máy bay ném bom hạng nặng sẽ đến nước này. Tướng Arnold ủng hộ kế hoạch này như một biện pháp tạm thời, nhưng vẫn nghiêng về kế hoạch ném bom chiến lược được thực hiện từ quần đảo Mariana, khi mà những sân bay ở đây đã sẵn sàng.
Chiến dịch Matterhorn được triển khai bởi by Brig. Gen. Kenneth Wolf vào tháng 10-1943 và được nhiệm vụ này được giao cho đơn vị điều phối chỉ huy ném bom XX Bomber Command. Ban đầu chiến dịch mang tên "Mặt trời mọc" dựa trên ý tưởng được đưa ra bởi Tổng thống Franklin D. Roosevelt tại hội nghị Casablanca và từ kế hoạch phản công "Chạng vạng" đưa ra bởi Gen. Joseph Stilwell. Theo kế hoạch, những sân bay ở Trung Quốc sẽ được tiếp tế bằng những chuyến bay xuất phát từ the Hump ở Ấn Độ. Ban đầu trong kế hoạch "Mặt trời mọc", các máy bay Mỹ sẽ xuất phát từ Quảng Tây miền Nam Trung Quốc. Nhưng trước áp lực ngày càng tăng của quân Nhật chống lại các lực lượng của Stillwell and Gen. Claire Chennault, chiến dịch Matterhorn phải dời các sân bay vào Thành Đô, một thành phố nằm sâu trong nội địa Trung Quốc.
Gen. Henry H. Arnold chấp nhận kế hoạch vào ngày 12 tháng 10 và trình lên Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ sau khi thuyết phục Tổng thống Roosevelt, thông qua trung gian là Tướng Gen. George C. Marshall, rằng không thể thực hiện các cuộc ném bom Nhật Bản chừng nào quần đảo Mariana chưa nằm trong tay quân Đồng Minh. Tuy nhiên Tổng thống Roosevelt không hài lòng với kế hoạch vì theo đó chiến dịch sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 6-1944. Trong khi đó ông đã hứa với Tưởng Giới Thạch rằng các máy bay Mỹ sẽ đến Trung Quốc vào ngày 1 tháng 1-1944, nhưng ông cũng đưa ra điều kiện rằng chiến dịch sẽ diễn ra trong 1 năm.
Trung tâm của chiến dịch là các máy bay ném bom B-29, có tầm bay lên đến 1,500 dặm (2,400 km); hầu hết 90% lượng bom dội lên nước Nhật là được thực hiện bởi các máy bay kiểu này.
Chiến dịch
Tháng 12 năm 1943 các nhóm tiền tiêu thuộc Không lực Hoa Kỳ đến Ấn Độ để chỉ huy việc xây dựng các sân bay ở Ấn Độ và Trung Quốc. Hàng nghìn nhân công người Ấn được tuyển mộ để xây dựng 4 sân bay nằm ở phía Đông Ấn Độ thuộc Kharagpur. Đồng thời cách đó 1.000 dặm về phía Đông bắc, vượt qua dãy Himalaya, khoảng 350.000 công nhân Trung Quốc được huy động để xây dựng các sân bay chính dùng trong chiến dịch gần Thành Đô miền Tây Trung Quốc. Đến tháng 4-1944, bốn phi đội B-29 đã sẵn sàng cho cho trận oanh tạc, và tám sân bay được hoàn thành.
-
Phi đội ném bom 40 : Đóng ở: sân bay Chakulia, Ấn Độ : Được triển khai tới: sân bay Hsinching (A-1), Trung Quốc
-
Phi đội ném bom 444 : Đóng ở: sân bay Dudhkundi, Ấn Độ : Được triển khai tới: sân bay Kwanghan (A-3), Trung Quốc
-
Phi đội ném bom 462 : Đóng ở: sân bay Piardoba, Ấn Độ : Được triển khai tới: sân bay Kuinglai (Linqiong) (A-5), Trung Quốc
-
Phi đội ném bom 468 : Đóng ở: sân bay Kalaikunda, Ấn Độ : Được triển khai tới: sân bay Pengshan (A-7), Trung Quốc
Để thống nhất sự chỉ huy đối với các đơn vị trong chiến dịch và tránh các hành động ném bom trùng lặp một cách không cần thiết, Bộ tham mưu Liên quân Hoa Kỳ đồng ý hợp nhất bốn phi đội trên thành nhánh không lực 20 (tiếng Anh: Twentieth Air Force) chuẩn bị cho các bước tiếp theo trong chiến dịch Matterhorn.
Với tư cách là người thực thi kế hoạch trong Bộ tham mưu, Arnold nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy trực tiếp nhánh không lực 20. Đồng thời Phi đội cũng nhận lệnh trực tiếp từ Ban tham mưu không quân Hoa Kỳ. Một cách không chính thức, Brig. gen. Haywood S. Hansell đã nhận lãnh chức vụ trưởng ban tham mưu và chỉ huy của nhánh không lực 20 sau khi Arnold trải qua một cơn nhồi máu cơ tim vào tháng 5. Sự chỉ huy tập trung các máy bay ném bom B-29 trên các mặt trận và trong từng nhiệm vụ từ Washington đã đánh dấu đây là loại vũ khí chiến lược tối quan trọng của quân đội Mỹ trong Thế chiến II. Cùng tháng đó, những chiến máy bay B-29 đầu tiên đến Ấn Độ, sau khi đã trải qua chuyến hành trình xuyên Đại Tây Dương khởi đầu từ căn cứ Morrision, Florida đến Natal, Brazil rồi đi qua Bắc Phi, sau cùng qua bán đảo Ả Rập và Iran. Dẫn đầu đoàn bay là Thiếu tướng Kenneth B. Wolfe, chỉ huy của đơn vị chỉ huy và điều phối ném bom XX Bomber Command, đơn vị này sau đó đã được chỉ định thuộc nhánh không lực 2 cùng tham gia với nhánh không lực 20 trong chiến dịch. Các cơ quan chỉ huy của Sư đoàn không quân 58 cũng đã dời đến Ấn Độ trong mùa xuân năm 1944. Đây là cánh duy nhất hoạt động ở lục địa châu Á dưới quyền của XX Bomber Command. Đơn vị XX Bomber Command đã thất bại trong việc thực hiện những mục tiêu chiến lược được đặt ra khi bắt đầu chiến dịch Matterhorn, mà nguyên nhân chủ yếu bởi vấn đề hậu cần, khó khăn kỹ thuật, vị trí dễ bị tấn công của các căn cứ ở Trung Quốc (xem chiến dịch Ichi-Go), và đặc biệt là khoảng cách từ các căn cứ đến mục tiêu quá lớn. Tuy vậy những máy bay B–29 cũng đã đạt được một số kết quả nhất định bằng việc đánh lạc hướng quân Nhật và hỗ trợ lực lượng của Tưởng Giới Thạch, kế hoạch phòng vệ của MacArthur ở Philippine, và nỗ lực Mountbatten tại Mặt trận Miến Điện, kết quả của những chiến B-29 có phần thành công hơn các chiếc B-17 Flying Fortress và B-24 Liberator nằm trong thành phần nhánh không lực 14, 15, 13, và 10.
Chennault xem xét lại khả năng thực thi nhiệm vụ của nhánh không lực 20 và cho rằng công tác hậu cần lẽ ra có thể tốt hơn nếu như được đảm trách bởi nhánh không lực 14. Đơn vị XX Bomber Command tiêu tốn hết 15% lượng hàng tiếp tế qua căn cứ Hump bằng không vận mỗi tháng trong chiến dịch Matterhorn. Trung tướng Albert C. Wedemeyer, người thay thế Trung tướng Joseph W. Stilwell với tư cách là chỉ huy cao cấp tại chiến trường Trung Quốc, đồng ý với Chennault. Cả hai đều hài lòng khi các máy bay B-29 kết thúc nhiệm vụ và rời khỏi Trung Quốc. Nhưng cho dù có những trở ngại như vậy, chiến dịch Matterhorn đã góp phần hỗ trợ các nỗ lực của lực lượng Đồng Minh. Bằng việc đặt căn cứ tại Trung Quốc đã giúp nâng cao tinh thần quân đội nước này và quan trọng hơn nữa là tạo điều kiện cho các cuộc ném bom chiến lược tiếp diễn sáu tháng sau đó từ quần đảo Mariana. Chiến dịch cũng chứng tỏ ưu thế vượt trội của máy bay B-29 so với các máy bay tiêm kích và pháo phòng không của quân Nhật. Đồng thời kinh nghiệm tổ chức và ném bom thu thập được đã giúp ích cho việc tổ chức và cải thiện chiến thuật cho các chiến dịch sau.
Chỉ huy chiến dịch
Nhằm hạn chế sự phân tán các máy bay B-29 vào chiến dịch dội bom Nhật Bản, đặc biệt bởi Đô Đốc Nimitz, người nắm quyền chỉ huy mọi hoạt động ở trung tâm Thái Bình Dương; Đại tướng Henry "Hap" Arnold trao quyền quản lý nhân sự của nhánh Không lực 20 cho Chuẩn tướng Haywood S. Hansell (và sau này là chỉ huy của XXI Bomber Command). Tuy nhiên kế hoạch kêu gọi huy động một lực lượng hùng hậu gồm 48 phi đội B-29, với số máy bay dao động trong khoảng 1.000 và 1.500 chiếc, dưới sự chỉ huy của bốn đơn vị điều phối ném bom (đơn vị XX BC chỉ huy 4 phi đội ở Ấn Độ và Trung Quốc, đơn vị XXI BC chỉ huy 16 phi đội ở quần đảo Mariana, đơn vị XXII BC chỉ huy 24 phi đội ở Philippine và Okinawa, đơn vị XXIII BC chỉ huy 4 phi đội ở quần đảo Aleutian) liên tục bị trì hoãn.
Kế hoạch ban đầu của chiến dịch là điều động hai sư đoàn không quân (Sư đoàn không quân 58 và 73) đến Trung Quốc dưới quyền của đơn vị XX Bomber Command đã thay đổi vào ngày 2 tháng 3-1944 khi chỉ có Sư đoàn 58 với một số lượng hạn chế máy bay B-29 được huy động. Vì vậy sau các kết quả ném bom ít ỏi, kế hoạch huy động một lực lượng hùng hậu như thế trở nên không cần thiết và sau khi chiến dịch kết thúc, 4 phi đội đã được chuyển tới Guam vào tháng 4-1945 hoạt động đưới quyền XXI Bomber Command ở Mặt trận Thái Bình Dương.
Bốn sân bay trong chiến dịch được dùng như những trung tâm điều hành của quân Đồng Minh trong Mặt trận Trung Quốc Miến Điện Ấn Độ trong Thế chiến II. Trên thực tế đơn vị XX Bomber Command không nắm quyền chỉ huy trực tiếp nào với bất kì căn cứ, đơn vị, hay lực lượng nào, ngay cả các đối với việc hậu cần. Tuy nhiên chỉ huy trưởng của XX Bomber Command có chức năng báo cáo trực tiếp đối với Bộ tổng Tham mưu liên quân ở Washington và không nằm dưới quyền của Chỉ huy chiến trường Đông Nam Á như các đơn vị còn lại hoạt động ở mặt trận Trung Quốc Miến Điện và Ấn Độ.
Quân đội Anh khi lên kế hoạch triển khai các máy bay ném bom đến khu vực Viễn Đông cho các chiến dịch chống lại quân Nhật, đã đề nghị nhánh không lực 20 được điều hành bởi một ban tham mưu hỗn hợp, cũng giống như lực lượng không quân của quân Đồng Minh ở châu Âu. Tuy nhiên đề nghị này nhanh chóng bị người Mỹ bác bỏ (vì hầu hết lực lượng được huy động đều là từ Hoa Kỳ), sau đó quân đội Anh cũng rút lại đề xuất.
Các cấp chỉ huy chiến dịch
Tướng Henry "Hap" Arnold nắm quyền chỉ trực tiếp nhánh không lực 20. Chuẩn tướng Haywood S. Hansell là trưởng ban tham mưu của đơn vị này. Các chỉ huy trong đơn vị XX Bomber Command bao gồm:
- Thiếu tướng Kenneth B. Wolfe
- Chuẩn tướng LaVern G. Saunders
- Thiếu tướng Curtis E. LeMay
- Chuẩn tướng Roger M. Ramey