✨Vương quốc Kush

Vương quốc Kush

Vương quốc Kush hoặc Kush () là một vương quốc cổ đại ở châu Phi nằm trên khu vực hợp lưu của sông Nile Xanh, Nile Trắng và sông Atbara, ngày nay là cộng hòa Sudan.

Được thành lập vào giai đoạn cuối thời kỳ đồ đồng cùng với thời điểm Tân Vương Quốc suy tàn ở Ai Cập, kinh đô của nó đặt tại Napata trong giai đoạn đầu. Sau khi vua Kashta ("người Kush") xâm chiếm Ai Cập vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên, các vị vua người Kush đã cai trị như là pharaoh của triều đại thứ 25 của Ai Cập suốt một thế kỷ, cho đến khi họ bị Psamtik I đánh đuổi vào năm 656 TCN.

Trong thời đại cổ điển, kinh đô của Kush nằm tại Meroe. Trong những tác phẩm địa lý Hy Lạp thời kỳ đầu, vương quốc Meroe được biết đến với tên gọi Ethiopia. Vương quốc Kush với kinh đô là Meroe đã tồn tại cho đến tận thế kỷ thứ 4 CN, khi mà nó bị suy yếu và tan rã do các cuộc nội chiến. Sau cùng, kinh đô của người Kush đã bị vương quốc Axum đánh chiếm và thiêu trụi hoàn toàn.

Tên gọi

Tên gốc ban đầu của vương quốc này được ghi nhận tại Ai Cập như là ', có khả năng phát âm là / kuɫuʃ / hoặc / kuʔuʃ /_' theo ngôn ngữ miền Trung Ai Cập khi thuật ngữ này được sử dụng lần đầu để chỉ Nubia, dựa trên sự chuyển ngữ tiếng Akkad thời Tân Vương Quốc như là sở hữu cách kūsi. Nó cũng là một thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ những cư dân bản địa đã xây dựng nên vương quốc Kush. Thuật ngữ này cũng được hiển thị trong tên người của người Kush, như vua Kashta (một phiên âm của _k3š-t3'' "(người từ) đất Kush"). Về mặt địa lý, Kush là tên gọi chung cho khu vực phía nam của thác nước thứ nhất. Kush cũng là quê hương của những vị vua thuộc triều đại thứ 25.

Nguồn gốc

Mentuhotep II (vị vua sáng lập nên thời kỳ Trung Vương Quốc) được ghi lại là đã tiến hành các chiến dịch chống lại người Kush vào các năm 29 và 31 dưới triều đại của ông. Đây là lần đầu tiên, tên gọi Kush được người Ai Cập nhắc tới; khu vực Nubia trước đó có tên gọi khác vào thời Cổ Vương Quốc.

Dưới thời Tân Vương quốc của Ai Cập, Nubia (Kush) là một thuộc địa của Ai Cập, bắt đầu từ thế kỷ 16 TCN, nó nằm dưới sự cai quản của một Phó vương Ai Cập của Kush. Cùng với sự sụp đổ của Tân Vương Quốc vào khoảng năm 1070 TCN, Kush đã trở thành một vương quốc độc lập với kinh đô tại Napata ở miền trung Sudan.

Người Kush chôn cất quốc vương của họ cùng với tất cả các triều thần trong những ngôi mộ tập thể. Các nhà khảo cổ gọi việc tiến hành điều này là "văn hóa mộ chảo". Tên gọi này được đặt theo cách thức mà các hài cốt được chôn cất. Họ sẽ đào một cái hố và đặt đá xung quanh thành một vòng tròn. Người Kush cũng được xây dựng những gò chôn cất và các kim tự tháp, họ còn thờ phụng một số các vị thần cũng được thờ cúng ở Ai Cập, đặc biệt là Ammon và Isis. Với việc thờ những vị thần này, các vị vua người Kush bắt đầu sử dụng một số tên tuổi của các vị thần làm vương hiệu của họ.

Chinh phục Ai Cập (Vương triều thứ 25)

thumb|Lãnh thổ cực đại của Kush vào năm 700 TCN upright=1.5|thumb|Các kim tự tháp Meroe ở Su dan – Di sản văn hóa thế giới của [[UNESCO.]] Năm 945 TCN, Sheshonq I và các hoàng tử Libya nắm quyền kiểm soát vùng đồng bằng châu thổ Ai Cập cổ đại và thành lập cái gọi là triều đại Libya hay triều đại Bubastite, mà sẽ cai trị trong khoảng 200 năm. Sheshonq cũng giành được quyền kiểm soát miền nam Ai Cập bằng cách đặt các thành viên trong hoàn gia vào các vị trí tư tế quan trọng. Tuy nhiên, sự cai trị của người Libya bắt đầu suy yếu từ lúc nổi lên một triều đại đối thủ ở vùng đồng bằng châu thổ tại Leontopolis và mối đe dọa từ người Kush ở phía nam.

Khoảng năm 727 TCN, vị vua người Kush, Piye đã xâm chiếm Ai Cập, nắm lấy quyền kiểm soát của Thebes và cuối cùng là khu vực châu thổ. Triều đại của ông, triều đại thứ 25 của Ai Cập, tiếp tục cai trị cho đến khoảng năm 671 TCN khi mà họ bị đế quốc Tân Assyria đánh đuổi.

Piye đã cố gắng để giành lại một chỗ đứng cho Ai Cập ở khu vực Cận Đông vốn bị mất trước đó năm thế kỷ, trong thời kỳ Trung đế quốc Assyria và đế quốc Hittite. Tuy nhiên, ông đã bị vua Assyria Shalmaneser V đánh bại và sau đó là vị vua kế vị ông ta, Sargon II trong năm 720 TCN. Triều đại thứ 25 đặt kinh đô tại Napata, thuộc Nubia, mà bây giờ là Sudan. Alara thường được coi là vị vua sáng lập triều đại thứ 25 bởi những vị vua kế vị ông.

Triều đại thứ 25 đạt đến giai đoạn đỉnh cao của nó là dưới triều đại các vị pharaoh Piye và Taharqa. Triều đại thứ 25 còn mở ra một thời kỳ phục hưng cho Ai Cập cổ đại. Tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc và đã được khôi phục lại vẻ huy hoàng như thời Cổ, Trung, Tân Vương Quốc trước đó. Các vị Pharaoh, chẳng hạn như Taharqa, đã cho xây dựng hoặc phục hồi lại các đền thờ và tượng đài dọc theo suốt thung lũng sông Nile, bao gồm cả ở Memphis, Karnak, Kawa, Jebel Barkal, v.v... Trong suốt triều đại thứ 25, việc xây dựng các kim tự tháp trở nên phổ biến ở khu vực thung lũng sông Nile (phần lớn ở Sudan ngày nay).

Taharqa là con trai của vua Piye và mười bảy năm đầu tiên dưới triều đại của ông, Kush đã trở nên vô cùng thịnh vượng. Trong thời gian này, chữ viết đã bắt đầu được giới thiệu ở Kush (Nubia), với sự xuất hiện của bảng chữ cái Meroe chịu ảnh hưởng Ai Cập vào khoảng năm 700-600 trước Công nguyên, mặc dù nó dường như hoàn toàn giới hạn trong triều đình và những ngôi đền lớn.

Tầm ảnh hưởng của Ai Cập đã giảm đáng kể về vào giai đoạn cuối của thời kỳ hỗn loạn thứ ba. Những đồng minh Canaan người Semit lịch sử của nó ở miền Nam Levant đã rơi vào tay đế quốc Trung Assyria (1365-1020 TCN), và sau đó là đế quốc Tân Assyria (935-605 TCN). Từ thế kỷ 10 TCN trở đi, người Assyria đã một lần nữa bành trướng từ quê hương của họ ở miền bắc Mesopotamia, và chinh phục một đế quốc rộng lớn, bao gồm toàn bộ vùng Cận Đông, và nhiều vùng Tiểu Á, phía đông Địa Trung Hải, vùng Caucasus và Iran/Ba Tư cổ đại.

Tới năm 700 TCN, chiến tranh giữa hai đế quốc dường như đã trở thành điều không thể tránh khỏi. Taharqa đã có được một số thành công nhỏ ban đầu trong nỗ lực của ông nhằm giành lại ảnh hưởng ở vùng Cận Đông. Ông đã hỗ trợ vua Hezekiah đẩy lui cuộc tấn công của Sennacherib và người Assyria (2 Các Vua 19: 9; Isaiah 37: 9), tuy nhiên bệnh dịch bùng phát trong quân đội Assyria dường như đã là nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại trong việc đánh chiếm Jerusalem chứ không phải bất kỳ trở ngại quân sự nào, và những ghi chép Assyrian đã chỉ ra rằng Hezekiah đã buộc phải triều cống. Vua Sennacherib của người Assyria sau đó đánh bại Taharqa và đánh đuổi người Nubia và Ai Cập ra khỏi khu vực này.

Giữa năm 674 và 671TCN, mệt mỏi vì sự can thiệp của Ai Cập trong đế quốc của mình, vua Esarhaddon đã bắt đầu xâm lược Ai Cập. Assyria, vốn là đội quân tinh nhuệ nhất thế giới từ thế kỷ 14 TCN, đã chinh phục lãnh thổ rộng lớn này với tốc độ đáng ngạc nhiên. Taharqa đã bị Esarhaddon đánh bại, và rút chạy về quê hương Nubia của ông. Esarhaddon thuật lại là đã "thiết lập nên các lãnh chúa địa phương và những viên thống đốc" và "Tất cả người Ethiopia đã bị ta trục xuất khỏi Ai Cập, khiến cho không một ai không thuần phục ta".

Tuy nhiên, các chư hầu Ai Cập vốn được Esarhaddon lập nên chỉ là bù nhìn và không thể hoàn toàn nắm giữ quyền lực lâu dài mà không có sự trợ giúp từ người Assyria. Hai năm sau, Taharqa trở lại từ Nubia và nắm quyền kiểm soát một phần miền nam Ai Cập xa về phía bắc tới tận Memphis từ tay đám chư hầu địa phương của Esarhaddon. Esarhaddon đã chuẩn bị để quay trở lại Ai Cập và một lần nữa đẩy lùi Taharqa, tuy nhiên ông ta đã ngã bệnh và qua đời tại kinh đô Nineveh, trước khi có thể rời Assyria. Vị vua kế vị, Ashurbanipal, đã phái một Turtanu (tướng quân) với một đội quân nhỏ nhưng được huấn luyện tốt và một lần nữa đánh bại Taharqa và trục xuất ông ra khỏi Ai Cập, và ông buộc phải rút chạy trở lại quê hương ở Nubia rồi qua đời hai năm sau đó.

Vị vua kế vị ông, Tanutamun, cố gắng để giành lại Ai Cập. Ông đã đánh thắng Necho, vị vua chư hầu được Ashurbanipal dựng nên, và chiếm Thebes trong quá trình này. Người Assyria, vốn đang đóng quân phía bắc, sau đó đã phái một đội quân lớn tiến về phía nam. Tantamani bị đánh tan và quân đội Assyria cướp phá Thebes đến mức nó không bao giờ thực sự hồi phục lại được nữa. Tantamani bị truy đuổi về tận Nubia, không bao giờ đe dọa đế quốc Assyria một lần nữa. Một vị vua Ai Cập bản địa, Psammetichus I, được đặt lên ngôi vua và là một chư hầu của Ashurbanipal. thumb|upright|Triều đại thứ 25

Dời đô về Moroe

Aspelta đã dời đô đến Meroe, xa hơn về phía nam so với Napata, có thể vào năm 591 TCN. Cũng có thể Meroe đã luôn luôn là kinh đô của người Kush.

Các nhà sử học tin rằng những vị vua Kush có thể đã lựa chọn Meroe bởi vì không giống như Napata, các khu vực xung quanh Meroe có đủ rừng để cung cấp nhiên liệu cho việc rèn sắt. Ngoài ra, Kush đã không còn phụ thuộc vào sông Nile để giao thương với thế giới bên ngoài; thay vào đó họ có thể vận chuyển hàng hóa từ Meroe tới bờ Biển Đỏ, và có thể dễ dàng giao thương với các thương nhân Hy Lạp.

Người Kush cũng đã sử dụng bánh xe nước do động vật kéo để tăng năng suất và tạo ra sản lượng dư thừa, đặc biệt là trong thời kỳ vương quốc Napata-Meroe.

Vào khoảng năm 300 TCN, quá trình dời đô về Meroe đã được hoàn tất khi các vị vua bắt đầu được chôn cất ở đó, thay vì ở Napata. Một giả thuyết cho rằng điều này là do các vị vua muốn phá vỡ quyền lực của các giáo sĩ tại Napata. Theo Diodorus Siculus, một vị vua Kush, "Ergamenes", đã thách thức và tàn sát các giáo sĩ. Câu chuyện này có thể được cho là ám chỉ đến vị vua đầu tiên được chôn cất tại Meroe có tên tương tự là Arqamani, ông đã cai trị trong nhiều năm sau khi nghĩa địa hoàng gia được mở tại Meroe. Trong cùng thời gian này, quyền lực của người Kush đã trải dài hơn 1.500 km dọc theo thung lũng sông Nile từ biên giới Ai Cập ở phía bắc tới khu vực phía nam của Khartoum ngày nay và có lẽ cũng mở rộng lãnh thổ đáng kể về phía đông và phía tây.

Nền văn minh Kush đã tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ. Trong thời kỳ Napata, chữ tượng hình Ai Cập đã được sử dụng: vào thời điểm này các ghi chép dường như chỉ hạn chế trong cung đình và đền thờ. Cho đến nay đã có 1278 ghi chép sử dụng ngôn ngữ này được biết đến (Leclant 2000). Các ký tự này đã được Griffith giải mã, nhưng ngôn ngữ đằng sau nó vẫn còn là một vấn đề, với chỉ một vài từ trong số đó được các học giả hiện đại hiểu. Mặc dù vậy, sự tàn phá kinh đô Napata chưa phải là đòn chí mạng đối với người Kush và không đủ để khiến Candace sợ hãi và ngăn cản bà tiếp tục cuộc chiến với quân đội La Mã. Chỉ ba năm sau, năm 22 TCN, một đạo quân lớn của người Kush tiến về phía Bắc với ý định tấn công Qasr Ibrim. Nhận được cấp báo về điều này, Petronius lại hành quân về phía nam và cấp tốc tiến đến Qasr Ibrim, rồi tăng cường phòng thủ nó trước khi người Kush tới. Mặc dù các ghi chép cổ không miêu tả trận chiến diễn ra, nhưng chúng ta biết rằng người Kush đã phái sứ thần tới đàm phán một hiệp định hòa bình với Petronius. Sau đó, họ đã thành công trong việc đàm phán một hiệp ước hòa bình với các điều khoản thuận lợi. Kush bắt đầu suy yếu dần từ thế kỷ 1 hoặc thế kỷ thứ 2, có thể là do suy sụp bởi cuộc chiến tranh với tỉnh Ai Cập của La Mã và sự đi xuống trong các ngành công nghiệp truyền thống của nó.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương quốc Kush** hoặc **Kush** () là một vương quốc cổ đại ở châu Phi nằm trên khu vực hợp lưu của sông Nile Xanh, Nile Trắng và sông Atbara, ngày nay là cộng hòa
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Vương quốc Aksum** (, ) hay **Đế quốc Aksumite** là một vương quốc cổ nằm ở Eritrea ngày nay và vùng Tigray của Ethiopia. Được cai trị bởi người Aksumite, nó tồn tại từ khoảng
**Vương quốc Daju** là một nền quân chủ thời Trung Cổ tồn tại ở Darfur, Sudan từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 15. Tên gọi vương quốc bắt nguồn từ tên của nhóm sắc
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 25**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Nubia** hoặc **Đế chế Kush** là vương triều cuối cùng của
**Abar** (còn được viết là **Abala** hoặc **Abale** Bà được biết đến qua nhiều tấm bia đá được tìm thấy ở Sudan và Ai Cập. ## Tiểu sử Abar là một phụ nữ người Nubia,
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Kashta** là một vị vua của Vương quốc Kush và là cha của Piye, vị pharaon sáng lập Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Tên ngai của ông thường được
**Đế quốc Durrani** (tiếng Pashtun: د درانیانو واکمني), còn gọi là **Đế quốc Afghanistan** (), được thành lập và xây dựng bởi Ahmad Shah Durrani. Vào thời kỳ đỉnh cao, lãnh thổ đế chế trải
**Ankhkare Anlamani** là một vị vua của vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 620 - 590 TCN. Anlamani vẫn sử dụng các danh hiệu của một pharaon Ai Cập như các vua trước
**Sekheperenre Senkamanisken** là một vị vua người Nubia cai trị Vương quốc Kush vào khoảng năm 643 - 623 TCN. Tuy không còn quyền cai trị Ai Cập nhưng ông vẫn sử dụng các danh
nhỏ|228x228px|Phác họa Tấm bia Đại thắng của Piye **Piye** hay **Piankhi**, là một vị vua của Vương quốc Kush và cũng là pharaon sáng lập Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Tabiry** là một công chúa người Nubia, về sau trở thành vương hậu của cả Vương quốc Kush và Ai Cập cổ đại thời kỳ Vương triều thứ 25. ## Tiểu sử Tabiry là con
**Bakare Tantamani** (**Tanutamun** hay **Tanwetamani**) là pharaon thứ năm của Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại và là vua của Vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 664 –
**Nefertemkhure Taharqa** (hay **Taharqo**) là pharaon thứ tư của Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại và là vua của Vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 690 – 664
**Djedkare Shebitku** (hay **Shebitqo**, **Shabataka**) là Pharaon thứ hai của Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại và là vua của Vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 714 –
**Nasalsa** là một vương hậu người Nubia của vương quốc Kush. ## Tiểu sử Nasalsa là chị/em gái của một vị vua, và cũng là vợ của vị vua đó. Bà chắc chắn là mẹ
**Sekhemkare Malonaqen** là vua của vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 555 - 542 TCN, là người kế vị trực tiếp của vua Aramatleqo. ## Tiểu sử Malonaqen được suy đoán là con
**Wadjkare Aramatleqo** là một vị vua của vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 568 - 555 TCN. ## Tiểu sử thế=|trái|nhỏ|194x194px|Mặt dây chuyền của Aramatleqo Aramatleqo và vợ ông, vương hậu **Amanitakaye** (Nu.26),
**Merykare Aspelta** là một vị vua của vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 593 - 568 TCN. Ông là em ruột của vị vua tiền nhiệm Anlamani. ## Tiểu sử Aspelta được chứng
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Analmaye** là một vị vua của vương quốc Kush tại Meroe, cai trị vào khoảng năm 542 - 538 TCN. ## Tiểu sử Không có nhiều thông tin về vị vua Analmaye này. Chỉ biết
nhỏ|Con dấu scarab của vương hậu Tati, được vẽ lại bởi Percy Newberry. ([[Bảo tàng Anh - số hiệu BM20824)|190x190px]] **Tati** là một vương hậu của Ai Cập cổ đại, sống vào khoảng thế kỷ
**Arty** là một công chúa, đồng thời là vương hậu của cả Vương quốc Kush và Ai Cập cổ đại thời kỳ Vương triều thứ 25. ## Tiểu sử Arty là một người con gái
**Alodia**, còn được biết đến với tên gọi khác là **Alwa** (, _Aroua_; , _ʿAlwa_), là một vương quốc thuộc thời kỳ Trung Cổ của người Nubia, nó nằm ở miền Trung và Nam Sudan
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Nobatia** hay **Nobadia** (tiếng Hy Lạp: Νοβαδία, _Nobadia_; tiếng Nubia cổ: ⲙⲓⲅⲛ̅ _Migin_ hay ⲙⲓⲅⲓⲧⲛ︦ ⲅⲟⲩⲗ, _Migitin Goul_ . "của vùng đất _Nobadia_") là một vương quốc thời hậu kỳ cổ đại ở Hạ Nubia.
**Neferkare Shabaka** là pharaon thứ ba của Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại, cai trị trong khoảng năm 705 – 690 TCN. ## Gia quyến Shabaka là con của vua
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Hindu Kush** (tiếng Pashto, tiếng Ba Tư và ) là một dãy núi nằm giữa Afghanistan và Pakistan. Tên gọi _Hindu Kush_ có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập và có nghĩa là "Các ngọn
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
**Sudan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Sudan**, là một quốc gia ở châu Phi, nằm ở điểm giao giữa Sừng châu Phi và Trung Đông, giáp với Ai Cập ở phía Bắc, Biển Đỏ ở
**Amenmesse** (cũng gọi là **Amenmesses** hay Amenmose) là vị vua thứ năm của Vương triều thứ 19 Ai Cập cổ đại, ông có thể là con của Merneptah và hoàng hậu Takhat. Một số người
**Merneptah** (hay **Merentaph**) là vị vua thứ tư của Vương triều thứ 19 của Ai Cập cổ đại. Ông cai trị trong khoảng từ cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8, 1213 đến 2 tháng
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Amenhotep I**, hay **Amenophis I**, là vị pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 18 thuộc Ai Cập cổ đại. Ông là con trai vua Ahmose I và khi vua cha qua đời,Amenhotep I nối
**Chiến tranh Afghanistan - Anh lần thứ nhất** là cuộc chiến giữa Công ty Đông Ấn Anh và Tiểu vương quốc Afghanistan từ năm 1839 đến 1842. Nó nổi tiếng với việc thảm sát 4.500
**Amenhotep III** (tên Hy Lạp hóa là **Amenophis III**; tên tiếng Ai Cập: **Amāna-Ḥātpa**; dịch nghĩa: _Amun đẹp lòng_), còn gọi là Amenhotep Vĩ Đại là vị pharaon thứ 9 thuộc Vương triều thứ 18
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Ramesses XI** (còn được viết là **Ramses** và **Rameses**) trị vì từ năm 1107 TCN đến 1078 TCN hay năm 1077 TCN, ông là vị vua thứ mười cũng là pharaon cuối cùng của Vương
**Usermaatre Osorkon IV** là pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Thời gian trị vì của ông gắn liền với những biến động đầy hỗn loạn, khi
**Thutmosis II** (hay **Thutmose II** hoặc **Tuthmosis II**, có nghĩa là "thần Thoth sinh ra"), là vị pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Ông đã cho xây một vài công
**Thutmosis I** (thỉnh thoảng còn gọi là _Thothmes, Thutmosis hay Tuthmosis_, có nghĩa là "thần Thoth sinh ra") là pharaon thứ ba của Vương triều thứ 18 nước Ai Cập. Ông lên ngôi sau khi
nhỏ|Mộ rỗng của công chúa Amenirdis I **Hatneferumut Amenirdis I** là một công chúa thuộc Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử Amenirdis I là công chúa của
**Khabash**, còn là **Khababash** hoặc **Khabbash**, cai trị tại Sais thuộc nome thứ Năm của Hạ Ai Cập vào thế kỷ thứ IV TCN. Trong giai đoạn chiếm đóng Ai Cập lần thứ Hai của