✨Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập

Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập

Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì kết thúc, mở ra thời kỳ Hậu nguyên.

Vương triều Ai Cập dần dần rơi vào thời kỳ suy thoái, kéo theo nhiều bất ổn chính trị, xảy ra song song với sự sụp đổ của Thời đại đồ đồng muộn ở các nền văn minh Cận Đông (bao gồm cả thời kỳ đen tối của Hy Lạp - Thời kỳ Homeros). Ai Cập bị xâu xé và nằm dưới quyền kiểm soát của các vương quốc ngoại bang. Về mặt chính trị thì như vậy nhưng đời sống của cư dân Ai Cập hầu như không thay đổi gì nhiều.

Vương triều thứ 21

Ramesses XI là vua cuối cùng của Vương triều thứ 20. Triều đại của ông đã trở nên suy yếu, những tay tư tế thay nhau lũng đoạn triều chính, quyền lực của họ cực kỳ to lớn, ngôi vương giờ đây chỉ là hư vị. Các Đại tư tế của thần Amun tại Thebes mới thực sự là những người cai trị ở Thượng Ai Cập; trong khi đó ở phía bắc, Smendes đã kiểm soát toàn bộ Hạ Ai Cập, lên ngôi tại Tanis ngay sau khi Ramesses băng hà, mở đầu cho Vương triều thứ 21.

Vương triều thứ 21 trải qua 7 đời vua, tồn tại trong vòng 134 năm (từ 1077 - 943 TCN), tương ứng với thời gian mà nhà sử học Manetho gán cho vương triều này.

Vương triều thứ 22 và 23

Thượng và Hạ Ai Cập đã được thống nhất dưới thời Vương triều thứ 22 (943 TCN - 716 TCN), được sáng lập bởi pharaon Shoshenq I vào năm 945 TCN (hoặc 943 TCN). Shoshenq I là hậu duệ của tộc người Berber cổ đại đến từ Libya. Họ đã di cư vào Ai Cập vào thời kỳ Vương triều thứ 20, được gọi là Meshwesh. Vương triều này còn được gọi là Vương triều Bubastite do các pharaon ngự tại thành phố Bubastis, nhưng hầu hết các vua Bubastite đều được chôn cất tại Tanis, thủ phủ cũ của Vương triều thứ 21.

Điều này mang lại sự ổn định cho đất nước trong hơn một thế kỷ, nhưng sau khi Osorkon II qua đời, Ai Cập lại bị chia cắt thành "hai vùng đất": Shoshenq III tiếp tục cai trị Hạ Ai Cập và duy trì Vương triều thứ 22 trong khi Takelot II, cháu nội của Osorkon II thành lập Vương triều thứ 23 (880 TCN - 750 TCN). Tại Thebes, một cuộc nội chiến kéo dài giữa Takelot II và Pedubast I thuộc Vương triều thứ 23 và chỉ được giải quyết vào năm thứ 39 của vua Osorkon III. Vương triều thứ 23 cũng bị diệt vong vào khoảng hơn 40 năm sau đó bởi sử nổi lên của những nhà cầm quyền tại vùng Heracleopolis và Hermopolis.

Vương triều thứ 24

Kashta, vua của Vương quốc Kush, nhân cơ hội này đã mở rộng lãnh thổ của mình lên đến tận Thebes. 20 năm sau đó, con trai ông, Piye đã đem quân ra bắc giết những tiểu vương cai trị của Ai Cập.

Vương triều thứ 24 tồn tại ngắn ngủi chỉ qua 2 đời vua: Tefnakht I và Bakenranef và đã đóng đô tại Sais. Shabaka, vua thứ hai của Vương triều thứ 25, sau khi tấn công Sais đã đem Bakenranef lên giàn hảo thiêu. Vương triều thứ 24 chấm dứt từ đó.

Vương triều thứ 25

Piye, con trai của Kashta đã khai sinh ra Vương triều thứ 25, được biết đến với tên gọi Vương triều Nubian hoặc Đế chế Kush. Các vua triều đại này đã cho khôi phục lại các đền đài tại Memphis, Karnak... và thống nhất Ai Cập như thời kỳ Tân vương quốc.

Vương triều thứ 25 kết thúc khi người Assyria tấn công Ai Cập. Những người kế vị của tiếp theo đã rút về quê hương, thành lập mọt vương quốc tại Napata và Meroe. Vương quốc Kush vẫn còn phát triển cực thịnh tới tận thế kỷ thứ 2 TCN.

Kết thúc thời kỳ

Năm 656 TCN, Psamtik I chiếm Thebes và lên làm vua, lập ra Vương triều thứ 26. Một lần nữa Ai Cập được yên ổn trở lại, gọi là Thời kỳ Saite. Thật không may rằng, một thế lực lớn mạnh khác đang trỗi dậy tại Cận Đông - Đế quốc Ba Tư. Vua cuối cùng Psamtik III chỉ trị vì 6 tháng trước khi ông phải đối mặt với Ba Tư. Psamtik III đã bị đánh bại và nhanh chóng trốn thoát đến Memphis, sau đó bị xử tử tại Susa, thủ phủ của vua Ba Tư Cambyses II.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thời kì Chuyển tiếp thứ Nhất của Ai Cập** hay **Thời kì Trung gian thứ Nhất** là một khoảng thời gian trong lịch sử Ai Cập, thường được mô tả như một "thời kì đen
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập** là một thời đại của lịch sử Ai Cập, đánh dấu một khoảng thời gian khi Vương quốc Ai Cập bị rơi vào tình trạng hỗn
**Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 25**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Nubia** hoặc **Đế chế Kush** là vương triều cuối cùng của
**Vương triều thứ Hai Mươi Ba của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 23**) là vương triều trong lịch sử Ai Cập, thường được coi là một phần của Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
**Vương triều thứ Mười Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 15**) là một triều đại các vua cai trị Ai Cập, kéo dài từ năm 1650 đến năm 1550 trước Công nguyên,
**Vương triều thứ Hai Mươi Mốt của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 21**) là một triều đại pharaon cai trị Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba. Thời kỳ này cũng
**Vương triều thứ Hai Mươi Bốn của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 24**) là một vương triều trong thời đại pharaon Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba, bao gồm các
**Vương triều thứ Hai Mươi Hai của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 22**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Bubastite**, kể từ khi các pharaon cai trị thành phố Bubastis.
nhỏ|Danh sách các pharaon của Vương triều thứ Hai theo [[Danh sách Vua Saqquara và Danh sách Vua Abydos.]] **Vương triều thứ Hai của Ai Cập cổ đại** (ký hiệu: **Vương triều thứ II**, từ
Trong lịch sử Ai Cập cổ đại, mỗi vương triều là thời kỳ mà các vị pharaon cùng chung dòng tộc hoặc trong cùng gia đình nối tiếp cai trị vương quốc. Ai Cập cổ
**Vương triều thứ Hai Mươi** (**Vương triều thứ 20**) của Ai Cập cổ đại là một vương triều thuộc thời kỳ Tân Vương quốc. Vương triều này cùng với hai Vương triều trước đó là
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
**Thời kỳ Hậu nguyên của Ai Cập cổ đại** đề cập đến các triều đại cuối cùng của những nhà cai trị Ai Cập bản địa sau Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba trong Vương
**Vương triều thứ Mười Bốn của Ai Cập** (**Vương triều thứ 14**) là một triều đại vua cai trị Ai Cập trong lịch sử Ai Cập cổ đại, nằm trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
**Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại** hay **Vương triều thứ 18** (bắt đầu năm 1543 TCN - kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ
**Iytjenu** là một vị vua Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất, khoảng năm 2100 TCN. Có rất ít thông tin về ông được biết đến vì ông chỉ được chứng
**Thời kỳ vương triều Cổ xưa** hoặc **Sơ kỳ vương triều của Ai Cập** hay **Thời kỳ Tảo Vương quốc** bắt đầu ngay sau khi diễn ra sự thống nhất Hạ và Thượng Ai Cập
**Trung Vương quốc Ai Cập** là một giai đoạn trong lịch sử của Ai Cập cổ đại, tồn tại trong thời gian giữa khoảng năm 2050 trước Công nguyên, và 1700 trước Công nguyên, trải
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Sehetepibre** Sewesekhtawy (cũng là **Sehetepibre I** hoặc **Sehetepibre II** tùy thuộc vào các học giả) là một vị pharaon Ai Cập thuộc vương triều thứ 13 trong giai đoạn đầu Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
**Abbas II** (còn được gọi là Abbās Ḥilmī Pasha, tiếng Ả Rập: عباس حلمي باشا), ông là Khedive (Phó vương) cuối cùng đại diện cho Đế quốc Ottoman cai trị Ai Cập và Sudan. Thời
**Sehetepkare Intef** (còn được biết đến là **Intef IV** hoặc **Intef V**) là vị vua thứ 23 thuộc vương triều thứ 13 trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Sehetepkare Intef đã
**Seheqenre Sankhptahi** là pharaon thứ 34 hoặc 35 của Vương triều thứ 13, thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Ông có lẽ trị vì trong một khoảng thời gian ngắn
**Semenkare Nebnuni** (cũng đọc là **Nebnun** và **Nebnennu**) là một pharaon được chứng thực nghèo nàn thuộc giai đoạn đầu vương triều thứ 13 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Theo
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
**Người Hyksos** ( or ; tiếng Ai Cập: _heqa khasewet_, "các ông vua ngoại quốc"; tiếng Hy Lạp: _Ὑκσώς_ hay _Ὑξώς,_ tiếng Ả Rập: الملوك الرعاة, có nghĩa là: "các vị vua chăn cừu") là
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Fathia của Ai Cập** (tên sau kết hôn _Fathia Ghali)_ () (17 tháng 12 năm 1930 - 10 tháng 12 năm 1976) là con gái út của Fuad I của Ai Cập và Nazli Sabri,
**Seqenenre Tao** (hay **Seqenera Djehuty-aa**, **Sekenenra Taa** hoặc **The Brave**) là vị pharaon cai trị cuối cùng của vương quốc địa phương thuộc Vương quốc Thebes, Ai Cập, trong Vương triều XVII trong Thời kỳ
**Nubkheperre Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V**, **Intef VI** hoặc **Intef VII**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập,
**Merytawy Penamun** là một pharaoh Ai Cập cổ đại có niên đại là cực kỳ không chắc chắn. ## Đồng nhất Penamun không xuất hiện trong bất cứ bản danh sách vua nào và đồ
**Senakhtenre Ahmose** là vị vua thứ bảy thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Ông cai trị Thebes của Thượng Ai Cập trong một thời gian ngắn
**Osorkon** là một tên gọi được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập. Dưới đây là
**Shoshenq** (cũng được viết là **Sheshonq**, **Sheshonk**, **Shoshenk**) là tên được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của
**Takelot** (cũng được viết là **Takeloth**) là một tên gọi được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của
**Nimlot** (cũng được viết là **Namlot**) là một tên gọi được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
**Sekhemre Khutawy Sobekhotep** (xuất hiện trong hầu hết các nguồn như là **Amenemhat Sobekhotep**; ngày nay được tin là **Sobekhotep I**; được biết đến là **Sobekhotep II** trong các nghiên cứu cũ) là một vị
thumb|Con dao găm với tên Nebkhepeshre Apepi. **Apepi** (cũng là **Ipepi**; Tiếng Ai Cập **') hoặc **Apophis** (; tên trị vì **Neb-khepesh-Re**, **A-qenen-Re** và **A-user-Re''') là một vị vua của Hạ Ai Cập dưới thời
nhỏ|Lò nấu luyện phosphat điện trong [[nhà máy hóa chất của TVA năm 1942.]] Trong luyện kim, **nấu luyện** là quá trình sử dụng nhiệt và tác nhân khử đối với quặng nhằm chiết tách
**Phó vương Ai Cập** hay **Ai Cập Khedive** (, ; __) là giai đoạn Ai Cập giữ vai trò là một quốc gia chư hầu tự trị của Đế chế Ottoman, chế độ Khedive được
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
**Cách mạng Ai Cập năm 1952** (), còn được gọi là **Cách mạng 23 tháng 7**, đánh dấu một giai đoạn biến đổi quan trọng ở Ai Cập, cả về chính trị và kinh tế
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới** (tiếng Anh: New 7 Wonders of Nature) là một cuộc bình chọn do công ty tư nhân New Open World (NOW) Corporation, đặt trụ sở tại Thụy