✨Trận Lạng Sơn (1979)

Trận Lạng Sơn (1979)

Trận Lạng Sơn diễn ra trong Chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979, vài ngày sau khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến sâu 15–20 km vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Cuộc giao tranh xảy ra chủ yếu tại thành phố Lạng Sơn.

Sau khi chiếm được các điểm cao phía bắc Lạng Sơn, quân Trung Quốc đã bao vây thành phố nhằm gây áp lực khiến phía Việt Nam tăng chi viện bằng các đơn vị được rút về từ Campuchia. Đây là kế hoạch chiến lược chính của Đặng Tiểu Bình, vì không muốn mạo hiểm khi tình hình leo thang có thể liên lôi kéo thêm Liên Xô. Tuy nhiên, Bộ chỉ huy cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, sau khi nhận được tin tình báo từ vệ tinh của Liên Xô, đã nhận ra cái bẫy của Trung Quốc và chỉ đưa lực lượng đến Hà Nội làm dự bị. Một cuộc tấn công tiếp tục diễn ra, nhưng phía Việt Nam chỉ cử một trung đoàn bảo vệ Lạng Sơn. Sau ba ngày giao tranh đẫm máu giành từng căn nhà, thành phố Lạng Sơn đã thất thủ vào ngày 6 tháng 3. Quân đội Trung Quốc sau đó đã chiếm các điểm cao phía nam Lạng Sơn.

Mặc dù Quân đội Trung Quốc đã chiếm đóng Lạng Sơn và các vùng lân cận trong thời gian ngắn, nhưng chiến dịch diễn ra chậm và tốn kém hơn so với dự tính của lãnh đạo Trung Quốc, họ chịu thương vong nặng nề trước chiến thuật du kích của dân quân Việt Nam và các đơn vị không chính quy.

Theo tờ Washington Post, các nhà phân tích mô tả trận đánh là một chiến thắng quan trọng của Trung Quốc trong việc chiếm đóng Lạng Sơn. Sự kháng cự của quân đội Việt Nam tập trung vào những nơi gần Lào Cai và Cao Bằng, đây được xem là yếu tố góp phần dẫn đến thất bại của phía Việt Nam. Một số nhà phân tích Thái Lan cho rằng Việt Nam chí ít đã thành công trong việc giữ tổn thất ở mức thấp nhất có thể bằng cách tránh các trận giao tranh trực tiếp giữa các đơn vị chủ lực đóng tại Hà Nội với lực lượng Trung Quốc.

Bối cảnh

Là một phần của cuộc viễn chinh trừng phạt Việt Nam vì đã tiến đánh chính quyền thân Trung Quốc là Campuchia. Quân đội Trung Quốc tiến sâu vào miền bắc Việt Nam khoảng 15–20 km, các trận giao tranh chủ yếu xảy ra ở các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai và Lạng Sơn. Việt Nam tránh huy động các sư đoàn chính quy vào chiến đấu, mà chỉ sử dụng cho mục đích phòng thủ Hà Nội. Phía Việt Nam cố gắng tránh giao chiến trực tiếp và thường sử dụng chiến thuật du kích để quấy rối lực lượng của Trung Quốc đang nam tiến. Để thực hiện được điều này, phía Việt Nam phải tận dụng địa hình đồi núi, đây là một trở ngại nghiêm trọng đối với phía Trung Quốc khi cố gắng tấn công và tiêu diệt các lực lượng không chính quy của Việt Nam.

Chuẩn bị

Bộ Tổng tham mưu Quân đội Trung Quốc giao nhiệm vụ đánh chiếm Lạng Sơn cho Quân đoàn 55 từ Quân khu Quảng Châu, giao vai trò hỗ trợ cho Quân đoàn 54 và 43 từ Quân khu Vũ Hán. Mỗi lực lượng này có khoảng 43.000 quân được tổ chức thành ba sư đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh và một trung đoàn phòng không. Từ biên giới giữa cột mốc 15 và 20, Quân đoàn 55 sẽ tiến vào thị trấn Đồng Đăng, trong khi Quân đoàn 43 sẽ vượt qua biên giới giữa cột mốc 32 và 45, càn quét Chi Ma trước khi tấn công vào thị trấn Lộc Bình, sau đó di chuyển theo hướng Tây bắc vào thành phố Lạng Sơn qua Quốc lộ 4B. Quân đoàn 54 ban đầu sẽ đóng vai trò là lực lượng dự bị.

Trong khi đó, lực lượng phòng thủ của Việt Nam ở Lạng Sơn được giao cho Sư đoàn 3, có khoảng 9.950 quân, được hỗ trợ bởi một số lực lượng địa phương từ Thành phố Lạng Sơn và các huyện Văn Lãng và Cao Lộc, cũng như Trung đoàn pháo binh 166 và Trung đoàn phòng không 272 do Quân khu 1 cử đi. Tổng lực của Việt Nam vào khoảng 13.000 quân. Để củng cố các vị trí phòng thủ của mình, quân đội Việt Nam đã xây dựng gần 20.000 công sự dã chiến, được ngụy trang kỹ càng và được hỗ trợ bởi nhiều bãi mìn và chướng ngại vật. Mặc dù các nhóm nhỏ vẫn tiếp tục kháng cự gần Nam Quan và Đồng Đăng, nhưng phần lớn lực lượng phòng thủ của Việt Nam lúc đó do Trung đoàn 12 đảm nhận ở phía nam của thị trấn tại bản Thâm Mô và các vùng lân cận. Cuộc tấn công được hỗ trợ bởi các nhóm nhỏ xe tăng tiến đến Quốc lộ 4A.

Giao tranh ở Thâm Mô diễn ra khốc liệt cho đến ngày 22 tháng 2, khi các mũi tiến công của quân Trung Quốc liên tục bị đẩy lui với thương vong nặng nề. Các chỉ huy phía Trung Quốc đã phải thay đổi chiến thuật, sử dụng các đơn vị nhỏ để đánh vào các vị trí của quân Việt Nam thay vì tấn công trực diện bằng các hàng lớp người. Sự thay đổi này dẫn đến việc Thâm Mô rơi vào tay Sư đoàn 163 Quân đội Trung Quốc vào lúc 20h00. Đồng Đăng bị chiếm đóng vào ngày hôm sau.

Tương tự, các cuộc tấn công hàng loạt của Trung Quốc vào phía đông Thâm Mô và Thâm Lũng bắt đầu từ ngày 17 tháng 2, đã bị lực lượng phòng thủ ngăn chặn quyết liệt. Vào ngày 18 tháng 2, một cuộc phản công của Việt Nam do Trung đoàn 2 Quân đội Việt Nam phát động đã đẩy các đơn vị của Trung Quốc quay trở lại Đồi 409, 611 và 675; điều này được lặp lại vào những ngày tiếp theo.

Vào ngày 23 tháng 2, Quân đội Trung Quốc có 6 đợt tấn công bản Phai Môn, tất cả đều bị đẩy lùi. Trung Quốc đã phải tiến hành thêm 12 mũi tấn công nữa trong ngày mới vượt qua được Thâm Lũng, khiến khoảng hơn 1.000 người thiệt mạng. Tại bản Cồn Khoang ở phía sau đồi 339, Đại đội 63 của Việt Nam đã chống đỡ được cuộc tấn công từ một lực lượng đông hơn của Trung Quốc vào ngày 17 tháng 2, gần như loại bỏ được một tiểu đoàn Trung Quốc. Ngày 25 tháng 2, quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Thất Khê.

Vào lúc 06h05 ngày 27 tháng 2, quân Trung Quốc tiếp tục cuộc tấn công vào Lạng Sơn bằng bốn mũi tấn công vào đồi 417, Khâu Mã Sơn, Pa Vai Sơn và Khau Khao Sơn, Khâu Mã Sơn là điểm cao chiến lược cách Lạng Sơn 4 km về phía Tây tây-bắc, hầu hết các tuyến đường lớn gần thị trấn ở đây đều bị chặn, sau đó rơi vào tay quân đội Trung Quốc khoảng lúc 14h00. Sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Khâu Mã Sơn khiến tuyến phòng thủ của Việt Nam từ Cốc Chử đến đồi 417 lọt vào tầm ngắm của địch, đồng thời đe dọa các vị trí của Trung đoàn 12 gần Chóc Võ. Đến ngày 28 tháng 2 quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Lộc Bình. Mặc dù bị suy yếu nghiêm trọng, Trung đoàn 12 của Việt Nam vẫn không từ bỏ việc giao tranh với quân Trung Quốc dọc Quốc lộ 1B, họ không ngừng phòng thủ đồi 607 và đồi 649. Ngày 2 tháng 3, một đội hành quân của Trung Quốc đang trên quốc lộ đã bị một tiểu đoàn Việt Nam phục kích. Khoảng từ ngày 2 đến ngày 10 tháng 3, một đại đội của Đơn vị 56037 quân đội Trung Quốc đã mất một phần ba quân số khi họ đang trấn giữ một ngọn đồi gần Bản Lan trước các cuộc tấn công liên tiếp của quân Việt Nam. Trong khi trận Lạng Sơn đang diễn ra, quân đội Việt Nam cũng triển khai các cuộc tấn công vào các thị trấn biên giới của Trung Quốc như Ma Lật Pha và Ninh Minh, nhưng không gây tổn thất đáng kể.

Từ ngày 17 tháng 2, Quân đoàn 43 của Quân đội Trung Quốc phải mất hai tuần rưỡi mới đến được thành phố Lạng Sơn từ phía đông. Sư đoàn 127 của họ hành quân từ Ba Sơn giữa mốc biên giới 32 và 33 đến Quốc lộ 1A tại Cao Lộc. Quân Trung Quốc phải mất mười ngày chỉ để vượt 5 km từ biên giới đến bản Xâm do bị Trung đoàn 141 quân đội Việt Nam đánh chặn.

Vào ngày 1 tháng 3, Sư đoàn 165 - Quân đoàn 55 của Trung Quốc đã chọc thủng được hàng tuyến phòng thủ của Việt Nam do Trung đoàn 42 của Quân đội Việt Nam trấn giữ tại Lam Trường, phía tây bắc thành phố Lạng Sơn. Sư đoàn 164 Quân đội Trung Quốc cũng đã chiếm được sở chỉ huy Trung đoàn 141 của phía Việt Nam tại Pò Lèo. Vào ngày 3 tháng 3, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công cuối cùng vào Lạng Sơn. Trung đoàn 12, đã bị tách khỏi phần còn lại của Sư đoàn 3, được giao nhiệm vụ tiếp tục bảo vệ các khu vực dọc Quốc lộ 1B. Cùng ngày, các đồi 332, 317 và 382 rơi vào tay hai tiểu đoàn dự bị của Quân đoàn 50. Sư đoàn 163 vượt Khủi Khúc (xã Hoàng Đồng) và Khòn Pát (xã Mai Pha), tiến sâu 5 km về phía nam Lạng Sơn tới Pác Moong (Pác Moòng), cuộc tiến quân này là bước tiến xa nhất của quân Trung Quốc về hướng Hà Nội. Các đơn vị của Việt Nam ở Lạng Sơn dù bị tổn thất nặng nề vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại quân đội Trung Quốc. Các Sư đoàn 327, 337 và 338 của Việt Nam được bố trí ở phía nam gần Chi Lăng để ngăn chặn khả năng đột phá của Trung Quốc, cuối cùng cũng đã được tung vào cuộc phản công. Các trung đoàn 337 và 338 truy đuổi quân Trung Quốc đang rút lui về Trung Quốc qua Chi Ma. một báo cáo sau trận chiến của Quân đoàn 55 cho thấy Quân đội Trung Quốc có 1.271 người chết và 3.779 người bị thương trong các cuộc đụng độ xung quanh Đồng Đăng và Lạng Sơn. Phía Trung Quốc cũng đưa ra con số thương vong của Việt Nam là 10.401. Theo tài liệu của phía Việt Nam, số lượng hy sinh và bị thương khi tác chiến của Sư đoàn 3 lần lượt là 6,6% và 8,4% quân số; mỗi sư đoàn còn lại tham gia vào các giai đoạn sau của cuộc chiến được cho là đã thiệt mạng hàng trăm người. nhưng chiến dịch của Trung Quốc cũng tỏ ra kém hiệu quả, vì các chiến thuật lỗi thời của họ đã không tạo ra bước tiến mạnh mẽ và lượng lớn thương vong của họ được đổi lấy những lợi ích nhỏ. Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong các trận chiến ở các tỉnh biên giới Việt Nam, QGPTQ vẫn tuyên bố rằng đường đến Hà Nội hiện đã rộng mở và mục tiêu của họ đã đạt được và rút quân về biên giới, đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Lạng Sơn** diễn ra trong Chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979, vài ngày sau khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến sâu 15–20 km vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Cuộc
thế=Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng hiện nay.|nhỏ|270x270px|Nhà thờ Chính tòa [[Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng.]]**Nhà thờ chính tòa Lạng Sơn** hay còn gọi là **Nhà thờ Cửa
**Trận Đồng Đăng** là trận chiến mở màn cho Chiến tranh biên giới phía Bắc giữa Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến sự diễn ra từ
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
:_Về một cửa khẩu tương ứng của Việt Nam, xem Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị_ nhỏ|320x320px|Khẩu ngạn Hữu Nghị Quan ngày nay **Hữu Nghị quan** (, tên cũ là **Trấn** **Nam quan** ("cửa ải
**Xung đột Việt Nam – Trung Quốc 1979–1991** là một chuỗi các cuộc đụng độ quân sự trên biên giới và hải đảo giữa hai nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
**Ngân Sơn** là một huyện nằm ở phía đông bắc tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Ngân Sơn nằm ở phía đông bắc tỉnh Bắc Kạn, có
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1: **Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao. **Hans Hürlimann trở thành tổng thống Thụy Sĩ **Hoa
**Đồng Đăng** là một xã biên giới thuộc tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. ## Địa lý Xã Đồng Đăng cách phường Lường Văn Tri 14 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: *Phía
**Cầu Kỳ Cùng** là một cây cầu bắc qua sông Kỳ Cùng tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. ## Vị trí Cầu nằm ở trung tâm thành phố Lạng Sơn, nối
**Hoàng Văn Kiểu** (1921-2006), thường gọi là **Hoàng Kiểu**, là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Việt Nam (1981-1987), Trưởng
**Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ** (1922–1998) là một giám mục Công giáo Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Giám mục Phạm
**Quốc lộ 279** là tuyến đường huyết mạch liên tỉnh nối các tỉnh miền núi phía Bắc là Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn
**Triệu Quang Điện** (sinh năm 1959) quê ở xã Thiện Hoà, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Ông là một đại tá Công an Nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
**Xích Điểu** là một bút danh của **Nguyễn Văn Tước** (1910-2003), một nhà văn, nhà thơ trào phúng Việt Nam. Ông thường viết với các bút danh Xích Điểu, Minh Tước, Thương Biền, Trần Minh
**Hoàng Trần Cương** (1948–2020) là nhà thơ Việt Nam, được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2022. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bài thơ __Miền
**Hoàng Đan** (28 tháng 2 năm 1928 – 4 tháng 12 năm 2003) là một tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông đã tham gia cả hai
Thượng tướng **Chu Văn Tấn** (1910–1984) là một vị tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đặt nền móng gây dựng nên lực lượng vũ trang Việt Nam. ## Thân thế Ông là
**Chùa Côn Sơn** (tên chữ là **Thiên** **Tư Phúc tự** hay **Côn Sơn Tự**), còn gọi là **chùa Hun**, là một ngôi chùa nằm bên ngọn núi Côn Sơn (hay còn gọi là núi Hun)
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
**Lào Cai** trước đây là một thành phố biên giới phía bắc và là tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Từ 01/07/2025, thành phố chính thức kết thúc hoạt động và được tổ
**Lê Đình Chinh** (1960-1978) là chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) đầu tiên hy sinh trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1978-1979, tại mặt trận huyện Cao
**Hứa Thế Hữu** (, _Xǔ Shìyǒu_; 1905-1985), tự **Hán Vũ** (汉禹), là một trong những "Khai quốc Thượng tướng" của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Là một trong số ít thượng tướng thoát
**Bùi Quang Tạo** tức: **Bùi Nhật** (1913 - 1995); quê quán huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình**,** là nhà hoạt động cách mạng, chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành
**Nguyễn Chính Trung** tên khai sinh là **Nguyễn Chí Chính** (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1932) là giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân Việt Nam, thiếu tướng, nguyên trưởng khoa thông tin
**Đỗ Văn Phúc** (sinh năm 1933) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông nguyên là Tùy viên Quân sự Việt Nam tại Liên Xô, Chánh
Các quân khu hiện tại của Việt Nam **Quân khu 1** là đơn vị quân sự cấp quân khu, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý
**Thị xã** là một đơn vị hành chính cấp huyện từng tồn tại ở Việt Nam, dưới tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Trước khi giải thể, thị xã là đô thị loại
**Sư đoàn 3** (hay **Sư đoàn Bộ binh 3**, **Sư đoàn Sao Vàng**) là một sư đoàn bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, đây cũng là sư đoàn
**Sáp nhập các tỉnh, thành Việt Nam** là một trong những chương trình quan trọng nhất nằm trong đợt Cải cách thể chế Việt Nam 2024–2025. Việc sáp nhập tỉnh, thành này chính thức được
**Sư đoàn 316**, còn gọi là **Sư đoàn Bông Lau**, là sư đoàn chủ lực của Quân khu 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Sư đoàn được thành lập ngày 1 tháng 5 năm
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
Chiến tranh đổ bộ là một khái niệm trong lĩnh vực quân sự, chỉ loại hoạt động quân sự sử dụng các tàu thuyền đi biển để tấn công và đổ quân. Hoạt động này
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
**BM-21 "Grad"** () là một loại pháo phản lực bắn loạt tự hành cỡ nòng 122 mm thiết kế tại Liên Xô. Hệ thống cùng với rocket M-210F được phát triển từ những năm 1960 và
**Cao Bằng** là một thành phố cũ trực thuộc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|[[Sông Bằng Giang đoạn chảy qua trung tâm thành phố Cao Bằng]] Thành phố Cao Bằng nằm gần
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
**Đàm Văn Ngụy** (1927 – 2015), bí danh **Văn Chung**, là một tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao, quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những đội viên
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
Lịch sử hành chính tỉnh Quảng Ninh có thể được xem bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1831-1832. Theo đó, từ năm 1831, trấn Quảng Yên được đặt thành
**Quảng Ninh** là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc
**Người Nùng**, là một trong số 54 nhóm sắc tộc được chính phủ Việt Nam chính thức phân loại. Người Nùng nói tiếng Nùng, là ngôn ngữ thuộc ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai.
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Lịch sử hành chính Cao Bằng** được lấy mốc từ năm 1832 khi vua Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính ở miền Bắc, đổi trấn Cao Bằng làm tỉnh Cao Bằng. Đến thời
**Hà Quảng** là một huyện miền núi nằm ở phía bắc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hà Quảng nằm ở phía bắc tỉnh Cao Bằng, có vị trí địa lý: *Phía
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong Quyền lộ [[Trần thức Thái cực quyền|Trần gia Thái cực quyền]] **Thái cực quyền** (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai