✨Chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn (tên chữ là Thiên Tư Phúc tự hay Côn Sơn Tự), còn gọi là chùa Hun, là một ngôi chùa nằm bên ngọn núi Côn Sơn (hay còn gọi là núi Hun) ở phường Cộng Hoà, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Chùa đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ cộng hòa xếp hạng di tích quốc gia ngay trong đợt I năm 1962. Đây là di tích quan trọng thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt năm 2012.
Lịch sử
Tên chữ của chùa là Thiên Tư Phúc tự hay Tư Phúc Tự, trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun. Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn, thuộc thôn Chúc Đình, xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn (sau là xã Chúc Thôn, tổng Chi Ngại, huyện Chí Linh). Tương truyền đây là nơi từng diễn ra trận hỏa công hun lửa tạo khói để vây bắt Phạm Bạch Hổ thời loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ 10. Nên ngoài tên gọi Côn Sơn, núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép về chùa Côn Sơn trong mục "Núi Côn Sơn", gắn liền với một loạt các nhân vật lịch sử nổi bật:
Năm Hưng Long thứ 12 (1304) nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một chùa nhỏ gọi là Kỳ Lân. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329) chùa được xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, giao cho Huyền Quang chủ trì. Ngay từ thời nhà Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng với Yên Tử và Quỳnh Lâm, Quảng Ninh. Ca dao có câu:
Chùa là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang - vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm. Sau khi Huyền Quang mất, vua Trần Minh Tông đã cho xây Đăng Minh bảo tháp chứa xá lị của ông và từ đó đến nay, ngày mất của Huyền Quang dần trở thành Hội Xuân Côn Sơn.
Sang thời Lê Sơ, chùa là nơi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn theo gót ông ngoại mình là Trần Nguyên Đán cũng đã về Côn Sơn lánh đời cuối thời Trần. Năm 1439, vua Lê Thái Tông khôi phục lại các chức tước cho Nguyễn Trãi, trong đó ông có một chức danh là Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự tức là "Quản lý chùa Tư Phúc" (chùa Côn Sơn).
Vào thời Lê trung hưng, giai đoạn Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhẫn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng đến quy mô đồ sộ. Theo bia tạc năm Hoằng Định thứ 15 (1614), khi đó chùa có đến 83 gian, bao gồm các công trình như: tam quan, tòa Cửu phẩm liên hoa gắn 385 tượng chư Phật, nhà thiêu hương, tiền đường, thượng điện, hành lang trái phải, tạc mới tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay, 18 tượng Phật sơn son trên thượng điện, thếp vàng lại ba tượng tam thế... Sau nhiều năm chiến tranh tàn phá, chùa Côn Sơn chỉ còn quy mô vừa phải nhưng kiến trúc vẫn hài hòa với cảnh quan.
Trước sân tiền đường chùa Côn Sơn có những cây đại cổ, làm tăng cảnh đẹp và tôn nghiêm của chùa. Trong quần thể chùa có rất nhiều những cây thông lâu năm, đặc biệt là hai hàng thông cổ thụ trong sân chùa tạo thành con đường thông. Phía sau chùa Côn Sơn là khu mộ tháp, lớn nhất là Đăng Minh bảo tháp được dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền Quang. Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới chân Đăng Minh bảo tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng Giếng Ngọc chính là mắt của con Kỳ Lân. Giếng Ngọc cũng có thời gian bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, ban Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã cho khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân xung quanh giếng. Đỉnh Côn Sơn là một khu vực khá bằng phẳng. Tương truyền, từ thời Trần, Pháp Loa Tôn giả đã lập một bàn cờ tại vị trí này, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện nay, tại khu vực này mới dựng thêm một nhà bia, theo kiểu vọng lâu, với 2 tầng, 8 mái.
Các cổ vật giá trị còn lại ở chùa bao gồm: 16 văn bia nói về về quy mô, những giai đoạn trùng tu chùa; ba pho tượng tam thế có phong cách vào giữa thế kỷ XVII hiếm gặp ở chùa khác; một bức tượng Phật A Di Đà cao trên 3m. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay chùa Côn Sơn là tượng gỗ phủ sơn cao 97 cm, bệ 70 cm, ước đoán niên đại cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Tay tượng đã bị tháo hết, đùi bành rộng (như tượng Mạc Đăng Dung ở chùa Trà Phương), kết cấu thân tượng phong cách thời Mạc nhưng các chi tiết bề mặt rất kiểu cách. Đầu búi tóc làm hai u, các dải mũ chạy nổi tách trên lưng, nếp áo trườn qua tay cũng rời thân thành những đường đều, dài. Hình thức tách nổi các nếp y phục trên tượng chỉ đặc trưng ở thế kỷ XVI mà sau không phổ biến nữa. Ngoài ra còn một bệ gỗ kết cấu 6 mặt. Hai mặt trước, sau lớn, bốn mặt góc nhỏ, tạo thành các tổ hợp trang trí hình lá để trong ô chữ nhật hoặc vuông với các tổ hợp rồng, hoa văn dương xỉ, mây xoắn biến dạng đăng đối. Chạm khắc bệ tượng này cũng đặc trưng phong cách thời Mạc.
Đăng Minh Bảo Tháp
Đăng Minh bảo tháp (phục chế) bằng đất nung tại [[Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, phục dựng theo hiện vật khai quật được tại chùa Côn Sơn năm 1979]] Năm 1334, Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn, vua Trần Minh Tông cúng dường 10 lạng vàng để xây tháp an táng xá lị cho thiền sư, đặt tên là Đăng Minh Bảo Tháp. Qua thời gian tháp đã bị hủy hoại. Năm 1719, nhà sư Hải Ấn cho xây dựng lại tháp.
Về hình thức và niên đại mộ tháp thì Đăng Minh bảo tháp cũng giống như Viên Thông bảo tháp (tháp xá lỵ của Pháp Loa, chùa Thanh Mai) và Huệ Quang kim tháp (tháp xá lỵ của Trần Nhân Tông, chùa Hoa Yên) được xếp vào loại tháp hoa sen. Các tháp này cùng được tạo dựng lại vào thời Lê Dụ Tông. Tháp Đăng Minh được tạo dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719). Tháp Viên Thông được tạo dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715). Tháp Huệ Quang được tạo dựng vào năm Bảo Thái thứ 10 (1729). Các tháp đều xây 3 tầng bằng các phiến đá lắp ghép. Tháp Đăng Minh và tháp Huệ Quang xây bằng đá xanh Kính Chủ còn tháp Viên Thông thì xây bằng đá khai thác tại chỗ. Ba ngôi tháp đều mở một cửa ở tầng một quay hướng nam. Phía trong có tượng các vị tổ bằng đá xanh, trước tượng là nhang án bằng đá, trên có bát hương.: Năm 1979: khai quật cạnh Đăng Minh Bảo Tháp đã tìm thấy những viên gạch và mảnh tháp đất nung thời Trần, sau đó năm 1998, bảo tàng Hải Dương đã tiến hành phục hồi. Phát hiện nhiều kè đá và nền móng kiến trúc thời Trần tại khu nền nhà Thanh Hư Động và cạnh Thượng điện. Năm 1992 - 1994: khai quật tam quan và đỉnh núi Kỳ Lân phát hiện nhiều mảnh gạch, ngói, gốm thời Trần. Năm 2000: khai quật khu vườn tháp và Thanh Hư Động thu được 2000 hiện vật ngói mũi hài, rồng đá, con giống đất nung thời Trần. Năm 2005: khai quật sau nhà tổ tìm thấy hai lớp nền móng kiến trúc từ thế kỉ XIV và thể kỉ XVI - XVII. Đồng thời tìm thấy nhiều gạch ngói, bát đĩa, tước, bình, lọ, bát hương, đặc biệt nhiều di vật niên đại thời Lê. *Năm 2014: khai quật khảo cổ di tích Nhà Phẩm để thu thập tư liệu nhằm phục dựng tòa Cửu phẩm liên hoa đã tìm thấy nền móng nhà Phẩm
Trùng tu và tôn tạo
Từ năm 2010, tỉnh Hải Dương đã tiến hành lập Quy hoạch chi tiết Khu di tích lịch sử - văn hóa Côn Sơn – Kiếp Bạc để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn khu di tích gắn với phát triển du lịch. Nhiều hạng mục chính trong quần thể được trùng tu, tôn tạo và phục dựng.
Năm 2015, chùa Côn Sơn khởi công xây dựng công trình phục dựng tòa Cửu phẩm liên hoa.
Chùa Côn Sơn còn giữ được 2 quả chuông cổ, đều có niên đại ở thời Tự Đức. Một quả chuông treo ở trong chùa ước nặng 5 tạ, 1 quả treo ở nhà Tổ ước nặng 1 tạ. 2 quả chuông đều ghi tên người công đức, có bài minh ca ngợi cảnh sắc Côn Sơn. Năm 2019, chùa tổ chức đúc thêm quả chuông mới để treo trên gác chuông mới phục dựng. Quả chuông được đúc bằng đồng, nặng 1,2 tấn, cao 1,8 m và có đường kính miệng chuông là 1,2 m, phục dựng theo mẫu chuông chùa Vân Bản thời Trần (bảo vật quốc gia số 13, đợt 2).
Trong thi ca
Chùa Côn Sơn xuất hiện trong rất nhiều các tác phẩm văn học chữ Hán từ thời Trần. đặc biệt là thơ. Các tác phẩm của các nhân vật lịch sử có thể kể đến như:
- Đề tư đồ Trần Nguyên Đán từ đường - 題司徒陳元旦祠堂 (Trần Nghệ Tông)
- Tặng Huyền Quang tôn giả - 贈玄光尊者 (Trần Minh Tông)
- Thanh Hư động ký - 清虛洞記 (Nguyễn Phi Khanh)
- Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn - 送僧道謙歸山 (Nguyễn Trãi)
- Côn Sơn ca - 崑山歌 (Nguyễn Trãi)
- Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn nhân tác Côn Sơn hành vân - 與詩友潘龍珍遊崑山因作崑山行云 (Cao Bá Quát)
Đây là nơi đã chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Ông sinh ra tại đây và sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trãi lại về Côn Sơn và sống cuộc dời ẩn dật. Cảnh Côn Sơn đã gợi cảm hứng để Nguyễn Trãi sáng tác một số bài thơ chữ Nôm trong Quốc Âm thi tập như "Quy Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác", cũng như thơ chữ Hán: Mộng sơn trung, Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Quy Côn Sơn chu trung tác, Khất nhân họa Côn Sơn đồ, mà nổi tiếng nhất là bài Côn sơn ca. Hiện bia được đặt trong nhà bia nằm trên sân chùa Côn Sơn, bên phải cổng chùa.
Việc tạo tác bia được Nguyễn Phi Khanh nhắc đến ở bài ký trong Nhị Khê thi văn tập:
Hình thức
Bia có kích thước lớn (165 cm x 98 cm x 17 cm), trán cong. Toàn bộ thân bia được đặt trên lưng một con rùa đá. Mặt trước trán bia khắc 4 chữ Hán theo thể chữ triện: Long Khánh Ngự Thư trong khung chữ nhật (22 cm x 25 cm) (Long Khánh là niên hiệu của Trần Duệ Tông 1372 – 1377). Giữa bia đề ba chữ lớn "Thanh Hư Động" viết theo lối lệ thư chân phương. Mỗi chữ kích thước 35 cm x 35 cm. Xung quanh diềm bia trang trí hình rồng triện gẫy khúc. Mặt sau của bia có khắc bài ký "Côn Sơn Tư Phúc tự bi". Trán bia mặt sau có hình mặt trời, diềm bia trang trí hoa dây đơn.
Niên đại
Các nhà nghiên cứu trước đây đã có những tranh luận trái chiều về niên đại của tấm bia này. Có hai luồng ý kiến Một bia khác ở Chùa Côn Sơn cũng có rùa đội là bia Trùng tu Tư Phúc tự bi niên đại Hoằng Định tứ niên (1603). Con rùa ở bia này có hình thức rất khác, không ngóc đầu lên, không có đuôi, mai xù xì và úp sát đất.:
::Côn Sơn Thanh Hư động bi minh
::Tư đồ sáng am, ::Vu bỉ ngâm khâm. ::Khởi hữu nguyện ư độc lạc, ::Cái ngụ ý hồ đăng lâm. ::Nhật toạ bàn thạch, tắc dục trí quốc thế chi an, ::Nhật phủ thanh lưu, tắc dục tư quốc luận chi thâm. ::Âm mậu thụ, tắc khuếch ngô dân chi đại tí, ::Ỷ tu trúc, tắc dục trí hiền sĩ chi như lâm. ::Phụ tán ngã trị, vô hữu hà tâm, ::Thử trẫm sở dĩ thán nhi thư vu sơn chi âm giả dã.
Dịch nghĩa:
::Tư đồ dựng am, ::Trên núi thâm nghiêm. ::Há phải muốn riêng mình vui thú, ::Chính là để ngụ cái ý lên cao. ::Ngồi trên bàn đá là muốn đặt thế nước yên ổn, ::Cúi nhìn dòng nước trong là muốn bàn sâu vào việc nước. ::Nương dưới bóng cây là muốn mở rộng được sự che chở cho dân, ::Tựa vào khóm trúc là muốn đến với nhiều hiền sĩ. ::Ông giúp ta trị nước, chứ không có tâm địa gì, ::Trẫm thương tiếc, nên tìm hòn đá đẹp ghi vào lời này.
Bia "Côn Sơn Tư Phúc tự bi"
Bia "Côn Sơn Tư Phúc tự bi" là dạng bia lục giác rất hiếm gặp ở Việt Nam, được tạo tác trong đợt đại trùng tu chùa Côn Sơn ở thế kỷ XVII. Đây là tấm bia quý, chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử, mỹ thuật đặc sắc. Bia được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2017.
Lịch sử
Bia "Côn Sơn Tư Phúc tự bi" được dựng vào năm Hoằng Định thứ 8 (1608) đời vua Lê Kính Tông, do Nguyễn Đức Minh soạn, Tạ Tuấn viết chữ, Lê Liễu người xã Kính Chủ khắc bia. Tấm bia được dựng trong đợt đại trùng tu chùa Côn Sơn do nhà sư Mai Trí Bản (trụ trì chùa Côn Sơn) chủ trì.
Hiện nay bia được đặt trong nhà bia hai tầng chồng diêm tám mái, ở phía trái sân chùa (từ cổng vào).
Hình thức
Tấm bia bằng đá xanh hình lục lăng, 6 mái, chóp mái nhọn. Các hoạ tiết trang trí trên bia được chạm khắc tinh xảo. Năm trên sáu mặt bia có chạm hình rồng mây. Hình ảnh những con rồng mang đặc trưng phong cách thời Mạc với thân dài, mảnh, uốn lưng ngựa, mặt quỷ, sừng trâu. Chữ trên bia thể hiện theo lối chân thư, sáu chữ tiêu đề bia được chạm to trên trán, mỗi mặt một chữ trong ô tròn.
Hiện nay lễ hội chùa Côn Sơn được kết hợp với lễ hội đền Kiếp Bạc thành lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc mùa xuân và mùa thu, thường được tổ chức từ ngày mùng 10 đến ngày 23 tháng giêng và mùng 10 đến 20 tháng 8 Âm lịch.
Lễ hội mùa xuân gồm: lễ rước nước; lễ Liên Hoa Hội Thượng phát đại nguyện của đức Phật; màn châm và truyền hoa đăng của phật tử; lễ rước bánh chưng, bánh dày tại chùa Côn Sơn, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán; lễ giỗ Đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang tôn giả; lễ đàn Mông Sơn thí thực; nghi lễ Nhiễu phật ở tòa Cửu phẩm liên hoa. Phần hội có: hội thi gói bánh chưng, giã bánh dày; Liên hoan Pháo đất tỉnh Hải Dương; giải Vật dân tộc, giải Cờ tướng. Lễ hội mùa thu thường bao gồm: lễ Cúng Phật, Thánh, Hội đồng Trần Triều; Lễ giỗ Đức Thánh Trần; Lễ khai ấn và ban ấn đền Kiếp Bạc; Lễ rước bộ; Lễ tưởng niệm, Lễ tế tại đền Nguyễn Trãi, đền Trần Nguyên Đán; Lễ cầu an. Phần Hội có: Liên hoan diễn xướng hầu Thánh, đua thuyền truyền thống, trình diễn nghệ thuật múa rối nước, hội quân trên sông Lục Đầu, hội hoa đăng... và các hoạt động văn hóa, thể thao khác. Các lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc thường thu hút đến hàng chục vạn lượt khách du lịch mỗi năm.