Tàu phóng lôi (tiếng Anh: Torpedo boat, Torpilleur) là loại tàu chiến nhỏ nhẹ, có tốc độ cao, sử dụng ngư lôi làm vũ khí chính để tấn công diệt tàu địch. Tác chiến tàu phóng lôi mang đặc trưng là tấn công nhanh, sử dụng tốc độ để áp sát tàu địch, phóng ngư lôi và rút lui nhanh chóng. Tuy nhiên, hiện nay, tàu phóng lôi hầu như không còn tận dụng được những ưu thế đó nữa. Lý do, tàu địch mang tên lửa chống tàu có tầm bắn xa hàng trăm km, vượt xa tầm bắn của ngư lôi. Hiện nay, tàu phóng lôi trong lực lượng hải quân tác chiến theo biên đội, có cả yểm trợ của nhiều phương tiện (tên lửa bờ biển, máy bay tiêm kích, …) thực hành tiến công bất ngờ, phóng nhiều tên lửa liên tiếp khiến tàu chiến địch không kịp đối phó.
Tàu phóng lôi là tàu tấn công nhanh, nhưng không thể tấn công nhanh nữa, khi phải ra xa bờ, không có địa hình, địa vật ẩn nấp, phải tiếp cận tàu địch có tên lửa bắn xa hàng trăm km, để phóng lôi ở cự li gần. Tàu phóng lôi chỉ còn có thể tác chiến gần bờ. Ngư lôi vẫn được nghiên cứu phát triển, nhưng là để trang bị kèm cho các tàu nổi, tàu ngầm, không còn là vũ khí chủ lực diệt tàu. Khi ngư lôi không còn phát huy tác dụng, tàu phóng lôi chỉ còn là một tàu tuần tiễu, tàu pháo, và cũng không thể so sánh với các tàu pháo hiện đại ngày nay.
Lịch sử ban đầu
Sự phát triển của nó có liên quan đến sự phát minh ra ngư lôi tự hành vào những năm 1860.
Ivan Fedorovich Aleksandrovsky năm 1865 đề nghị với bộ Hải quân Nga loại ngư lôi tự đẩy. Đô đốc Stepan Osipovich Makarov chỉ huy tàu Công tước Konstantin. Chiến hạm này có 4 tàu phóng lôi Chesma (Чесма), Sinop (Синоп), Navarin (Наварин) và Miner (Минер). Hai chiếc Chesma (Чесма), Sinop (Синоп) đánh chìm tàu hơi nước Thổ Intibah ngày 14 tháng 1 năm 1878.
Hải quân của một quốc gia giờ đây có khả năng tiêu diệt một hạm đội tàu chiến của đối phương bằng cách chỉ sử dụng máy phóng bằng hơi nước mà từ đó các ngư lôi có thể được thả xuống. Các tàu nhỏ chạy nhanh có trang bị ngư lôi được chế tạo, và được đặt tên là tàu phóng lôi (còn được gọi là phóng pháo hạm, tàu phóng ngư lôi hay ngư lôi đỉnh), và chúng được phát triển vào khoảng thập niên 1880 thành những tàu loại nhỏ tải trọng 50 đến 100 tấn, đủ nhanh để vượt qua các tàu tuần tiễu đối phương.
Đến đầu thế kỷ 20 đã phổ biến các tàu phóng lôi nhỏ, chạy nhanh và các tàu đối phó với chúng là tàu khu trục, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là tàu ngầm chủ yếu dùng ngư lôi. Trận chiến lớn dùng ngư lôi là Nga-Nhật 1905 Viễn Đông. Các tàu phóng lôi rất rẻ luôn thách thức đội thiết giáp hạm đắt đỏ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai xuất hiện pháo tự động bắn nhanh, tên lửa... nên các tàu phóng lôi ít tác dụng hơn trước, nhưng vẫn phổ biến. Thông thường tàu phóng lôi ngày nay mang cỡ vài trăm tấn, mang 2 hay 4 ống phóng, một động cơ đốt trong thường và một động cơ turbine hoặc turbo, chạy rất nhanh và rẻ. Tàu phóng lôi có các phương tiện phóng không tầm thấp và pháo nhỏ bắn nhanh, có radar để chiến đấu mọi thời tiết, có vỏ tang hình để chống radar địch. Chiến thuật thông thường của tàu phóng lôi là dùng nhóm tàu lao về phía tàu địch, lạng lách tránh pháo địch và chống trả máy bay đến khi phóng được ngư lôi. Tuy vậy, ngày nay tàu phóng lôi có nhiệm vụ chính là kết thúc tàu địch đã bị thương, không cho cơ hội sửa chữa. (Ví dụ trận đánh eo Đan Mạch, Tàu Bismarck bị tàu phóng lôi Dorsetshire tiêu diệt).
Các loại tàu
Nga (Liên Xô)
*Tàu phóng lôi lớp Shershen: _(Số lượng hoàn tất: 123 chiếc)_nhỏ|[phải|Tàu phóng lôi lớp Turya T-68 số hiệu HQ-334 của [[Quân chủng Hải quân Việt Nam|Hải quân Nhân dân Việt Nam]]
Shershen là định danh của NATO dành cho loại tàu phóng lôi hạng nhẹ lớp T-3 do Liên Xô nghiên cứu và sản xuất vào thập niên 1960. Tên thiết kế của tàu là Dự án 206 Shtorm (Project 206 Shtorm).
Tàu có lượng giãn nước đầy tải 172 tấn; chiều dài 34,08 m; chiều rộng 6,72 m; mớn nước 1,46 m; được trang bị 3 động cơ diesel M-503A 3 trục công suất 12.500 mã lực, cho tốc độ tối đa 45 hải lý/h.
Vũ khí trang bị của Shershen gồm 2 pháo AK-230 cỡ 30 mm có tốc độ bắn 2.000 phát/phút, dùng để chống lại các mục tiêu trên không và tàu xuồng cỡ nhỏ. Tuy nhiên trên tàu Việt Nam, pháo AK-230 đã bị thay thế bằng pháo 25 mm 110-PM nòng đôi điều khiển thủ công.
Sức mạnh của Shershen nằm ở 4 ngư lôi chống tàu mặt nước hạng nặng 53-56 cỡ 533 mm, có thể đánh chìm chiến hạm cỡ lớn chỉ với duy nhất một phát bắn. Bên cạnh đó là 4 tên lửa phòng không vác vai SA-N-5 (phiên bản hải quân của SA-7) có tầm bắn 4,2 km.
*Tàu phóng lôi lớp Turya: (Số lượng hoàn tất: 51 chiếc) nhỏ|[phải|Tàu phóng lôi lớp T-3 (Tàu phóng lôi lớp Shershen) của Ai Cập hoạt động tại vùng [[Địa Trung Hải năm 1989]]
Turya Dự án 206M chính là bản nâng cấp của tàu phóng lôi Dự án 206 lớp Shershen, tương tự như người tiền nhiệm, chúng chủ yếu làm nhiệm vụ hộ tống và tác chiến ven bờ.
So với Shershen thì Turya có kích thước lớn hơn với lượng giãn nước đầy tải 250 tấn; chiều dài 39,6 m; chiều rộng 7,6 m; mớn nước 4 m; được trang bị 3 động cơ diesel M-503B2 công suất 15.000 mã lực, cho tốc độ tối đa 40 hải lý/h.
Vũ khí trang bị của Turya tương tự Shershen với 4 ống phóng ngư lôi 53-56 cỡ 533 mm, 1 pháo 25 mm nòng đôi 110-PM bố trí phía trước và điểm khác biệt lớn nhất là được bổ sung pháo tự động AK-257 cỡ 57 mm phía sau.
Hoa Kỳ
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu phóng lôi _Shershen**_ (tiếng Anh:’’ Turya class torpedo boat’’,tiếng Nga:’’Торпедные катера проекта 206’’) là tên ký hiệu của NATO cho loại **tàu phóng lôi lớp T-3** do Liên Xô nghiên cứu và sản
là một trong bốn tàu thuộc lớp tàu phóng lôi Chidori của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó bị lật trong một cơn bão vào ngày 12 tháng 3 năm 1934, ngay sau khi
là một chiếc tàu phóng lôi của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tàu được đặt hàng vào năm 1885 từ xưởng đóng tàu Yarrows ở London, Anh Quốc, nơi nó được chế tạo theo
**Tàu phóng lôi** (tiếng Anh: _Torpedo boat_, _Torpilleur_) là loại tàu chiến nhỏ nhẹ, có tốc độ cao, sử dụng ngư lôi làm vũ khí chính để tấn công diệt tàu địch. Tác chiến tàu
**Tàu phóng lôi lớp Turya** (tiếng Anh: _Turya class torpedo boat_, tiếng Nga:_Торпедные катера проекта 206-М_) là tên gọi của NATO cho loại tàu phóng lôi cánh ngầm cao tốc lớp T-68 thuộc đề án
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
nhỏ|Động cơ phản lực của [[VA-111 Shkval, đây là loại động cơ phản lực luồng có lượng thông qua lớn từ nước hút vào]] nhỏ|[[VA-111 Shkval Nga, đầu tạo siêu bọt.]] [[Tàu ngầm hạt nhân
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu khu trục _Hatsuharu**_ (tiếng Nhật: 初春型駆逐艦 - Hatsuharugata kuchikukan) là một lớp bao gồm sáu tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trước và trong Chiến
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**Lớp tàu khu trục Tribal**, còn được gọi là **lớp _Afridi**_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**Tàu frigate** () là một loại tàu chiến. Từ ngữ này được dùng cho nhiều tàu chiến với nhiều kích cỡ và vai trò khác nhau trong vài thế kỷ gần đây. Theo vai trò
**_U-557_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_Victor Hugo_** là chiếc cuối cùng cho lớp tàu tuần dương bọc thép _Léon Gambetta_ được Hải quân Pháp chế tạo trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tàu được hạ thủy vào tháng 3
thumb|Tàu quét mìn [[Lớp tàu quét mìn MMS|_J 636_ tại vùng biển duyên hải Anh trong Thế Chiến II.]] **Tàu quét mìn** (tiếng Hán-Việt: "trục lôi hạm" hay "tảo lôi hạm"; tiếng Anh: minesweeper) là
**_Blücher_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn
**Tàu hộ vệ** (tiếng Anh: _Guard ship_) là một loại tàu chiến được thiết kế để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ các tàu lớn như tàu vận tải và tàu đổ bộ
**_U-561_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành phần
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Lớp tàu khu trục Hunt** là một lớp tàu khu trục hộ tống được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những chiếc đầu tiên được đặt
thumb|right|Tàu tiếp liệu khu trục cùng với một chi hạm đội tàu khu trục [[Allen M. Sumner (lớp tàu khu trục)|lớp _Allen M. Sumner_ tại vịnh Subic, Philippines, tháng 11, 1963]] **Tàu tiếp liệu khu
**Lớp tàu tuần dương _Tone**_ (tiếng Nhật: 利根型巡洋艦, Tone-gata junyōkan) là lớp tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Hai chiếc tàu chiến trong lớp đã tham gia
**Lớp tàu khu trục _Wickes**_ (từ DD-75 đến DD-185) là một nhóm 111 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1917-1919. Cùng với 6 chiếc lớp _Caldwell_ dẫn trước
là một trong những lớp khu trục hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) sau năm 1942. Hải quân Nhật xếp loại lớp Akizuki là và được thiếc kế để chống máy bay,
**_U-383_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_Uzuki_** (tiếng Nhật: 卯月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_Mochizuki_** (tiếng Nhật: 望月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_U-235_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó bị đánh
Pháo hạm lớp **Shantou** là một pháo hạm do CHND Trung Hoa chế tạo cho Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tại Hoa Kỳ, được biết đến với tên gọi pháo hạm
**Lớp tàu tuần dương _Dido**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm 16 chiếc (tính cả lớp phụ _Bellona_) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Thiết kế của chúng bị ảnh
và là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng còn được gọi là ## Nguồn gốc thiết kế Lớp Matsu được xây dựng vào cuối Thế
**_U-15_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
là một cặp tàu tuần dương bọc thép lớn được đóng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Các tàu bắt đầu được đóng giữa cuộc
**Lớp tàu khu trục _Caldwell**_ là một lớp tàu khu trục được đưa ra phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ lúc gần cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Hai chiếc đã bị loại
**_Karlsruhe_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương K được Hải quân Đức đưa ra hoạt động giữa hai cuộc thế chiến. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế
**_Nürnberg_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức thuộc lớp _Leipzig_ vốn còn bao gồm tàu tuần dương _Leipzig_. Được đặt tên theo thành phố Nuremberg, nó đã hoạt động trong
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
là tàu mang thủy phi cơ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và là tàu sân bay đầu tiên của Nhật Bản.Nó được cải biến từ một tàu vận tải thành tàu mẹ thủy
**_Königsberg_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương K được Hải quân Đức đưa ra hoạt động giữa hai cuộc thế chiến. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế
**_La Combattante_** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Pháp Tự Do. Nó nguyên được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo như là chiếc **HMS _Haldon**_ và
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Nhà máy đóng tàu Gdańsk** (_Stocznia Gdańska_) trước đây là **Nhà máy đóng tàu Lenin** là một xưởng đóng tàu lớn ở thành phố cảng Gdańsk, Ba Lan. Nó trở lên nổi tiếng mang tầm
nhỏ|Một _tàu thông báo thời thuộc địa_ lớp _[[tàu thông báo lớp Bougainville|Bougainville_ của Pháp]] **Tàu thông báo** hay _thông báo hạm_ (tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là _Aviso_) là một loại
**61-K** (tiếng Nga: **37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)**) là một loại pháo phòng không tự động có cỡ nòng 37 mm được Liên Xô sản xuất từ cuối năm 1939. Được dùng chủ