✨Tạ Đạo Uẩn

Tạ Đạo Uẩn

Tạ Đạo Uẩn (chữ Hán: 謝道韞; không rõ sinh mất), lại có thuyết tên Thao Nguyên (韜元), biểu tự Lệnh Khương (令姜), Tấn thư lại nói biểu tự vốn là Đạo Uẩn, được biết đến là một tài nữ thời Đông Tấn, nổi tiếng với tài học hơn người. Bà là vợ của Vương Ngưng Chi (王凝之), con trai của Thư pháp gia trứ danh Vương Hi Chi.

Trong lịch sử cổ đại Trung Hoa, bà cùng Ban Chiêu và Thái Diễm thường được gọi là những tài nữ xuất sắc, có tài về thơ, phú, thường được đề cập đến để chỉ những phụ nữ tài năng. Trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đoạn thuật nàng Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng và đề thơ trên bức tranh, Kim Trọng khen nàng: "Khen tài nhả ngọc phun châu. Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này"; chính là để nói đến Ban Chiêu và Tạ Đạo Uẩn.

Thân thế

Tạ thị xuất thân danh môn đương thời là Trần Quận Tạ thị (陈郡谢氏), người quận Trần, Dương Hạ (阳夏; nay là huyện Thái Khang, tỉnh Hà Nam). Ông nội bà là Tạ Bầu (謝裒), cha bà là Tạ Dịch (謝奕), đương khi ấy lãnh An Tây tướng quân, kiêm Thứ sử Dự Châu; Tạ Dịch là anh trai của Tể tướng Tạ An thời Đông Tấn, ngoài ra còn là anh họ của Thượng thư phó xạ Tạ Thượng (谢尚). Mẹ Tạ Đạo Uẩn là Nguyễn Dung (阮容), người cùng tộc với Nguyễn Tịch (阮籍) và Nguyễn Hàm (阮咸).

Trong nhà bà có bảy người anh em trai: Tạ Huyền, Tạ Ký Nô (谢寄奴), Tạ Uyên (谢渊), Tạ Tĩnh (谢靖), Tạ Hoát (谢豁), Tạ Du (谢攸), Tạ Tham Viễn (谢探远), Tạ Tham (谢康). Có ba người em gái là Tạ Đạo Vinh (谢道荣), Tạ Đạo Xán (谢道粲) và Tạ Đạo Huy (谢道辉), Tạ Đạo Uẩn là trưởng nữ.

Hôn nhân

Tạ An rất yêu mến đứa cháu gái tài hoa xinh đẹp, nên hết sức chú ý tìm chỗ xứng đáng cho bà. Cuối cùng, ông quyết định chọn Vương Ngưng Chi (王凝之), là con trai thứ của nhà Thư pháp Vương Hi Chi để gả cháu gái. Vương Ngưng Chi rất hiền lành, lễ phép, trung hậu nhưng xét về tài học thì không thể nào sánh nổi Tạ Đạo Uẩn. Nhưng vì giao tình của hai nhà Vương-Tạ lúc bấy giờ rất thân thiết, tốt đẹp, nên Tạ An quyết định như thế.

Sau hôn lễ, Tạ Đạo Uẩn tìm gặp chú Tạ An để than phiền về năng lực của chồng mình, tuy có hiền hậu nhưng tài ba lại chẳng có gì. Chú Tạ An nói:"Vương lang là con trai của Dật Thiểu (chỉ Vương Hi Chi), gia đình quả là môn đăng hộ đối, chàng ta nhân phẩm rất tốt, cháu còn phàn nàn nỗi gì?". Bà liền đáp: "Thưa chú, cả nhà họ Tạ chúng ta, trên dưới ai nấy đều là người có tài văn chương nhả ngọc phun châu cả. Con không thể nào chịu nổi, nếu như một ngày nào đó, nhà họ Tạ lại có những con người tài ba như Vương Ngưng Chi!". Sau đó, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Bà tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục. Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Hiến Chi, người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Hiến Chi làm một cái màn che lại, bà sẽ ngồi sau để nhắc Hiến Chi trong khi biện luận với khách. Vương Hiến Chi nhờ đó mà chinh phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.

Về sau, Tạ An tiến cử Vương Ngưng Chi lên làm quan Nội sử ở Cối Kê. Chẳng may, gặp loạn dữ Tôn Ân xâm chiếm thành, Vương Ngưng Chi xử trí tình huống không thỏa đáng, giặc vào được thành và giết chết. Trước đó, Tạ Đạo Uẩn từng cảnh báo chồng mình nên gia tăng phòng bị, nhưng đều bị Ngưng Chi gạt ra, Tạ Đạo Uẩn đành phải tự mình chiêu mộ mấy trăm gia đinh mỗi ngày tăng thêm huấn luyện.

Đến khi Ngưng Chi thất bại mà chết, bạo quân tràn vào thanh tàn sát, Tạ Đạo Uẩn vẫn bình tĩnh, gan dạ, cầm gươm chống cự với kẻ địch một cách hiên ngang. Trong tay Tạ Đạo Uẩn khi ấy ôm cháu ngoại Lưu Đào, quân Tôn Ân toan giết, Đạo Uẩn bèn quát:"Chuyện liên quan đến họ Vương, có liên quan gì đến nó?! Muốn hại đến nó, chi bằng giết ta trước!". Tôn Ân trước đây nghe tiếng Tạ Đạo Uẩn, bây giờ thấy khí khái bất phàm cũng cảm phục, lệnh đưa cả nhà bà về Cối Kê. Từ đó Tạ Đạo Uẩn vẫn ở lại thành Cối Kê để thủ tiết thờ chồng, trọn đời không cải giá, đóng cửa phủ không đi đâu. Thái thú mới của Cối Kê là Lưu Liễu, sau loạn Tôn Ân đến tư trạch của họ Vương để hỏi bái Đạo Uẩn, sau khi ra về có nói:"Vương phu nhân thanh tao cao xa, chân thành cảm động, Liễu này được một buổi đàm luận thật là ân huệ to lớn!". Tạ Đạo Uẩn về già viết không ít thi thư luận văn, cũng truyền lại đời sau.

Điển tích

Tạ Đạo Uẩn nổi tiếng thông minh, có nhan sắc tuyệt trần, học rộng, có tài biện luận, giỏi thơ văn. Tạ Dịch người đất Dương Hạ, chú Tạ Đạo Uẩn là Tể tướng Tạ An thường hỏi Kinh thi, bà đều trả lời rành rọt. Bà là người phụ nữ được cùng xướng danh với Mạnh Hạo Nhiên – Thịnh Đường, công khai đàm luận Huyền học với danh sĩ.

Đương thời Tạ Đạo Uẩn cực giỏi về thi văn, sớm có tiếng. Một lần thúc phụ Tạ An có hỏi bà rằng:"Trong Mao thi, câu nào hay nhất?". Đạo Uẩn bèn đáp:"Cát phủ tác tụng, mục như thanh phong. Trọng sơn phủ vĩnh hoài, dĩ úy kỳ tâm". Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng (謝朗) và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi: "Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?".

Tạ Lãng đáp: "Muối trắng ném giữa trời". Thế nhưng, Tạ Đạo Uẩn liền bảo: "Thế mà chưa bằng [Gió thổi tung tơ liễu]". Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng: "Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bậc công khanh". Về sau, điển tích này trở nên nổi tiếng, lưu truyền rất rộng rãi, được gọi là [Vịnh nhứ chi tài; 詠絮之才].

Về phương diện học vấn, Tạ Đạo Uẩn cùng Ban Chiêu và Thái Diễm thường được người đời sau ca ngợi là những bậc tài nữ có học vấn cao thâm, giỏi về thơ, văn; "Vịnh nhứ chi tài" từ đó cũng thường để nói về những cô gái tài năng có khả năng thơ văn. Trong Tam tự kinh, có câu: "Thái Văn Cơ, năng biện cầm. Tạ Đạo Uẩn, năng vịnh ngâm", để nói lên cái tài của Tạ Đạo Uẩn.

Tác phẩm

Tạ Đạo Uẩn giói về thơ văn, tương truyền am hiểu 5 thể loại: thơ, phú, lụy (诔), tụng (讼), truyện. Theo Tùy thư - Kinh tịch chí, Tạ Đạo Uẩn có một thi tập gồm 2 quyển, nhưng đã thất lạc. Hiện tại, tác phẩm của bà chỉ còn một bài Thái sơn ngâm (泰山吟) chép trong Nghệ văn loại tụ (艺文类聚).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tạ Đạo Uẩn** (chữ Hán: 謝道韞; _không rõ sinh mất_), lại có thuyết tên **Thao Nguyên** (韜元), biểu tự **Lệnh Khương** (令姜), Tấn thư lại nói biểu tự vốn là **Đạo Uẩn**, được biết đến
**Tạ** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á, chủ yếu là Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 사, Romaja quốc ngữ: _Sa_) và Trung Quốc (chữ Hán: 謝, bính âm: _Xiè_). Trong
phải|Tượng Tạ An **Tạ An** (chữ Hán: 謝安, 320 - 385), tên tự là **An Thạch** (安石), nguyên quán ở huyện Lịch Dương, Trần quận, là nhà chính trị, quân sự lớn và đại thần
**Tạ Huyền** (chữ Hán: 謝玄; 343-388), tên tự là **Ấu Độ** (幼度), là đại tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Dương Hạ, Trần quận, nay là huyện Thái Khang, tỉnh Hà
**Tạ Văn Phụng** (chữ Hán: 謝文奉; ? - 1865), còn có các tên là **Bảo Phụng,** **Lê Duy Phụng** (黎維奉), **Lê Duy Minh** (黎維明 ## Cuộc đời Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương,
**_Lý Công Uẩn: Đường tới thành Thăng Long_** là một bộ phim truyền hình lịch sử Việt Nam dài 19 tập, với nội dung phim xoay quanh con người và sự nghiệp vua Lý Công
**Doãn Uẩn** (chữ Hán: 尹蘊, 1795-1850), tự là **Nhuận Phủ**, **Ôn Phủ**, hiệu là **Nguyệt Giang**, **Tĩnh Trai**, là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị,
**Bàng Cư Sĩ** (zh. 龐居士 _Páng Jūshì_, ja. _Hōkoji_, 740–808), còn gọi là **Bàng Uẩn Cư Sĩ**, **Bàng Long Uẩn**, là cư sĩ Thiền Tông ngộ đạo nổi tiếng thời Đường. Ông là môn đệ
**Lang Gia Vương thị** (琅琊王氏), là thế tộc họ Vương tại quận Lang Gia (琅邪郡). Lang Gia Vương thị hưng khởi lúc thời Hán, thời Đông Tấn phát triển thành gia tộc cao nhất trong
**Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài** (tiếng Trung: 梁山伯与祝英台, tiếng Anh: Butterfly Lovers) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc do Đài GZTV sản xuất và phát hành vào năm 2007 dựa theo
**Nguyễn Phúc Trinh Thận** (chữ Hán: 阮福貞慎; 12 tháng 9 năm 1826 - 3 tháng 1 năm 1904), biểu tự **Thúc Khanh** (叔卿), biệt hiệu **Diệu Liên** (妙蓮), lại có hiệu **Mai Am** (梅庵), là
**Mai phi** (chữ Hán: 梅妃), hay **Giang Mai phi** (江梅妃), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Tương truyền bà sở hữu thân hình mảnh khảnh, yêu thích hoa mai nên
**Phổ Nghi **(, ; 7 tháng 2, năm 1906 – 17 tháng 10, năm 1967), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị vua thứ 12 và là vị vua cuối cùng
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Ông Mỹ Linh** (1959-1985) là nữ diễn viên người Hồng Kông nổi tiếng trên toàn thế giới thập niên 1980 với vai Hoàng Dung trong phim truyền hình Anh hùng xạ điêu năm 1983. Cô
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
nhỏ|Hạc hình quyền **Bạch Hạc quyền** (_Bai He quan_) còn được gọi _Thiếu Lâm Bạch Hạc quyền_ (_Shaolin Bai He quan_), tên phổ biến ở Trung Quốc là **Phúc Kiến Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền**
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại
**Mã Hy Ngạc** (馬希萼), gọi theo thuỵ hiệu là **Sở Cung Hiếu vương** (楚恭孝王), là quân chủ thứ năm của nước Sở thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông tiến hành chiến tranh nhằm tranh ngôi
**Cựu Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 旧五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Tiết Cư Chính thời Bắc Tống viết
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
**Tấn Hiếu Vũ Đế** () (362–396), tên thật là **Tư Mã Diệu** (司馬曜), tên tự **Xương Minh** (昌明), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 14 của
**Lý Quỹ** (, ? - 619), tên tự **Xử Tắc** (處則), là hoàng đế của nước Lương thời Tùy mạt Đường sơ. Ông cai quản vùng lãnh thổ ở bờ tây Hoàng Hà thuộc tỉnh
**Lê Long Đĩnh** (chữ Hán: 黎龍鋌 15 tháng 11 năm 986 – 19 tháng 11 năm 1009) là vị hoàng đế thứ 3 cũng là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Tiền Lê trong
**Cai Vàng** (1800-1862/1863) tên thật là** Nguyễn Văn Thịnh** (阮文盛) hay **Nguyễn Thịnh** (阮盛), là lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại triều đình Tự Đức ở vùng Bắc Ninh với danh nghĩa "phù Lê"
**Miếu Thượng Đặng Xá** là ngôi miếu thờ thần Linh Lang Bạch Mã được dựng từ triều nhà Đinh, là một trong 3 di tích lịch sử có liên quan đến thời gian khởi nghiệp
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
nhỏ|Historical Records of the Five Dynasties in Wuyi Museum **Tân Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 新五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ
**_Kim Bình Mai từ thoại_** (金瓶梅詞話), thường được biết đến tới tên gọi **_Kim Bình Mai_** (金瓶梅), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh sáng tác vào thời nhà
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Trương Minh Giảng** (chữ Hán: 張明講; 1792-1841) là một danh thần nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người "văn võ song toàn", là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Vương Cung** (chữ Hán: 王恭, ? – 398), tên tự là **Hiếu Bá**, người Tấn Dương, Thái Nguyên, là đại thần, ngoại thích nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh của
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Phan Thanh Giản** (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự **Tĩnh Bá** (靖伯), **Đạm Như** (淡如), hiệu **Mai Xuyên** (梅川), **Lương Khê** (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Nguyên sử** (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm 1370.
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Lịch sử hành chính An Giang** được xem là bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832, khi thành lập 12 tỉnh từ các dinh trấn ở miền Nam. Sau
George Gibson (?-1825) (sử nhà Nguyễn gọi là **Hợp Thần Thăng Thụ** hoặc **Hợp Thời Thăng Thụ**) Bản tường trình về sứ mệnh ở Việt Nam của Gibson có chứa nhiều thông tin đương thời
**Trận Thượng Hải** (ở Nhật gọi là **Sự kiện Thượng Hải lần thứ 2** (tiếng Nhật: 第二次上海事變) trong khi ở Trung Quốc gọi là **Chiến dịch 813** (tiếng Trung: 八一三戰役) hoặc **Hội chiến Tùng Hộ**
**Điền Lệnh Tư** (, ? - 893), tên tự **Trọng Tắc** (仲則), là một hoạn quan đầy quyền lực trong triều đại của Đường Hy Tông. Trong hầu hết thời gian Đường Hy Tông trị
::_Xem các công trình có tên_ **Võ miếu** _tại bài Võ miếu (định hướng)_ Bia đá tại Võ miếu Huế, chứng tích còn lại của một di tích trong [[quần thể di tích cố đô