✨Tạ An

Tạ An

phải|Tượng Tạ An Tạ An (chữ Hán: 謝安, 320 - 385), tên tự là An Thạch (安石), nguyên quán ở huyện Lịch Dương, Trần quận, là nhà chính trị, quân sự lớn và đại thần dưới thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.

Ngay từ thời trẻ, Tạ An đã tỏ ra là người thông minh, nhân trí, được nhiều người đánh giá cao. Khi trưởng thành, ông từ chối chức quan nhỏ được nhận, về ẩn cư ở Đông Sơn vui thú điền viên. Mãi đến năm 360, khi tuổi gần 40, Tạ An mới tái xuất, trở lại triều đình làm quan, giữ chức Tư mã dưới quyền thái úy Hoàn Ôn. Về sau, ông được Thừa tướng-Cối Kê vương Tư Mã Dục tiến cử lên chức thái thú Ngô Hưng, không bao lâu sau lại được thăng lên làm Thị trung rồi Lại bộ thượng thư kiêm lĩnh Trung Hộ quân. Khi Tấn Giản Văn Đế lâm bệnh nặng, muốn truyền ngôi cho Hoàn Ôn, nhưng cuối cùng bỏ di chiếu đi. Ngay sau khi Giản Văn Đế qua đời, Hoàn Ôn lập tức đưa quân muốn tiêu diệt ông và Vương Thản Chi, nhưng Tạ An không ngần ngại ra thành áp chế Hoàn Ôn, khiến Hoàn Ôn không dám làm gì. Sau đó, ông tiếp tục trợ giúp đắc lực cho vua mới nối ngôi là Tấn Hiếu Vũ Đế, được thăng lên làm Thượng thư bộc xạ, Hậu tướng quân rồi Dương châu thứ sử kiêm Trung thư giám, Lục thượng thư sự, đô đốc các châu quận, Thái bảo, Vệ tướng quân, nắm được nhiều quyền lực lớn trong triều. Trong những năm đầu thời Hiếu Vũ Đế, Tạ An và nhiều thành viên trong gia tộc tích cực lo việc phòng thủ trước sự xâm lược của nước Tiền Tần ở phía bắc, kết quả giành được thắng lợi vang dội trong trận Phì Thủy vào năm 378, giải quyết được mối đe dọa từ phương bắc. Từ đó quyền lực của họ Tạ lấn át được cả triều đình, khiến tông thất nhà Tấn lo lắng. Đến năm 384, nhân Tiền Tần rối loạn, Tạ An đưa quân bắc phạt hòng thu phục lại miền bắc, lấy lại hai châu Lương, Ích, khiến ranh giới Nam-Bắc dời đến Hoàng Hà, mở rộng đáng kể lãnh thổ của nhà Tấn. Sau chiến công này, Tạ An chủ động từ bỏ quyền lực để tránh sự nghi ngờ của triều đình, đến ngày 22 tháng 8 năm 385, ông lâm bệnh và mất ở Kiến Khang, hưởng thọ 66 tuổi, được triều đình ban tặng chức vị Thái phó, tước vị Lư Lăng quận công, thụy là Văn Tĩnh và được an táng với lễ nghi long trọng.

Ngoài những đóng góp trên lĩnh vực chính trị, Tạ An cũng để lại cho hậu thế nhiều áng văn hay như Lan Đình thi và nhiều câu danh ngôn nổi tiếng. Ông được sử sách đánh giá là một vị quan chính trực, tuy nắm nhiều quyền lớn nhưng không hề tỏ ra kết bè kết phái lũng đoạn triều chính như nhiều tướng lĩnh, quan lại đương thời, thường lấy đại cục làm trọng, nhiều lần điều hòa quan hệ giữ các phe cánh, góp phần làm ổn định nhà Tấn. Khi công thành danh tựu, ông không tham luyến quyền vị, chủ động rút lui kịp thời, nên được hậu thế trọng vọng và đánh giá cao.

Thiếu niên thông tuệ

Tạ An xuất thân trong một gia đình vọng tộc ở Trần quận là họ Tạ, nhiều đời giữ chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Tấn, được hiển vinh và giàu có, được nhân gian xưng tụng là Tạ gia lan ngọc chân môn hộ. Phụ thân ông là Tạ Bầu làm quan đến chức Thái thường khanh, chức vụ lớn trong triều đình. Bản thân Tạ An từ nhỏ đã là người thông tuệ, tài cao, có tính tình trầm mẫn, thích đọc sách, được nhiều người đánh giá cao, trong đó có danh nhân ở Tiếu quận là Hoàn Di khen ông là phong thần tú triệt. Đến năm mười ba tuổi thì thanh danh của ông đã trở nên rất nổi tiếng, vang xa đến tận quận Liêu Đông.

Ẩn cư Đông Sơn

trái|Bản đồ núi Đông Sơn trái|Tranh vẽ cảnh du ngoạn của Tạ An Về sau, Tạ An được nhận chức Trữ tác lang trong phủ Tư đồ, nhưng chỉ được một thời gian thì ông cáo bệnh, từ chức và ẩn cư ở vùng Đông Sơn. Trong thời gian này, ông kết thân với nhiều danh sĩ như Vương Hi Chi, Hứa Tuân (ngươi quận Cao Dương),... thường lai vãng, du ngoạn hay thưởng thức âm nhạc ở nhiều nơi trong quận Cối Kê. Một lần ông cùng Tôn Xước vượt biển du ngoạn thì gặp bão to làm mọi người hoảng sợ không yên, duy chỉ có Tạ An vẫn không tỏ vẻ gì mà còn khuyên mọi người bình tĩnh, hoảng sợ không có ích gì. Cuối cùng giông tố tan đi, mọi người trong thuyền đều an toàn.

Cũng trong những năm tháng ẩn cư, Tạ An nổi tiếng với việc giáo dục con em của mình về nhiều lĩnh vực. Trong những người thân của ông, có cháu gái Tạ Đạo Uẩn là người giỏi, được ông rất yêu quý. Nghe thanh danh của ông, nhiều đại thần nắm quyền trong triều như Dương châu thứ sử Dữu Băng phái người đến quận mời ông ra làm quan, nhưng chỉ tháng sau ông từ chức ra về. Tiếp đến, ông không chịu nhận chức Lại bộ lang của Lại bộ thượng thư Phạm Uông tiến cử... Nhiều lần triều đình triệu Tạ An về kinh nhưng ông không đến, ẩn cư ở phía đông nam nhiều năm. Ông cũng thường đến núi Lâm An, ở trong nhà đá, có người bảo ông giống như Bá Di đời nhà Thương. Một lần nữa, đại thần Chu Nhân muốn dùng Tạ An ra giúp mình, nhưng ông cũng không nhận. Việc làm của ông được nhiều người xem trọng. Tể tướng nhà Tấn là Cối Kê vương Tư Mã Dục cũng cho rằng Tạ An có ưu điểm hơn người.

Tái xuất triều đình

Năm 360, anh họ của Tạ An là Tạ Vạn làm Tây trung lang tướng, bị thua trận rồi bị phế làm dân thường. Dòng họ Tạ không còn người nào lĩnh chức quan lớn. Từ thời điểm đó, Tạ An mới bắt đầu tái xuất, được phong làm Tư mã trong phủ của thái úy Hoàn Ôn. Hoàn Ôn là đại tướng nắm quyền lớn trong tay, có mưu đồ cướp ngôi nhà Tấn nhưng Tạ An không đồng tình với Hoàn Ôn, thành ra lập trường chính trị đối lập rõ rệt, nhưng hai bên vẫn đánh giá cao về nhau. Về sau Hoàn Ôn muốn giết Tạ An, nhưng nghe nhiều người xưng tụng ông nên quyết định không ra tay.

Không lâu sau Tạ Vạn chết, Tạ An xin từ chức chịu tang. Về sau ông được Thừa tướng-Cối Kê vương Tư Mã Dục (tức Giản Văn Đế về sau), tiến cử là Ngô Hưng thái thú. Từ khi ông nhận chức ở đó, bách tính được an cư lạc nghiệp. Mấy năm sau, Tạ An được thăng làm thị trung.

Quyền hành của Hoàn Ôn trong triều ngày càng lớn, năm 370, Hoàn Ôn sau lần bắc phạt về kinh đã phế truất Tấn đế Tư Mã Dịch, lập Cối Kê vương Tư Mã Dục (Giản Văn đế), vu tội cho Vũ Lăng vương Tư Mã Hi, làm khuynh đảo triều đình. Tạ An cùng Vương Thản Chi, Vương Bưu liên hợp nhằm chống lại thế lực của Hoàn Ôn. Sang năm 372, Tấn Giản Văn Đế ốm nặng, Hoàn Ôn bèn tiến cử Tạ An đến thụ cố mệnh. Giản Văn Đế ban đầu muốn nhường ngôi cho Hoàn Ôn, bèn hạ lệnh nói: Nếu con nhỏ có thể phò tá thì phò tá, còn nếu không thì cứ tự giữ lấy. Vương Thản Chi lại đốt bỏ di chiếu, khóc nói với hoàng đế: Thiên hạ là của Tuyên, Nguyên, không thể do một tay bệ hạ định đoạt. Giản Văn Đế bèn đổi chiếu cho Hoàn Ôn phụ chính giúp con nhỏ, theo việc của Gia Cát Võ hầu và Vương Đạo ngày trước.

Áp chế Hoàn Ôn

Giản Văn Đế mất, Hiếu Vũ Đế nối ngôi. Hoàn Ôn nghe tin mình không được nhận ngôi vua thì vô cùng tức giận, đưa quân vào kinh hô to khẩu hiệu: Tru Vương Tạ, di Tấn đình, có ý giết Tạ An và Vương Thản Chi. Trữ thái hậu sai hai ông đến Tân Đình đón Hoàn Ôn. Vương Thản Chi lo sợ, đến hỏi kế Tạ An. Tạ An không đổi sắc mặt mà đáp: Nhà Tấn còn hay mất là ở chuyến đi này rồi đến gặp Hoàn Ôn. Thấy ông đến, Hoàn Ôn cho trưng nhiều binh ra dọa làm cho Vương Thản Chi sợ đến biến sắc. Tạ An vẫn bình tĩnh nói với Ôn:

:An này nghe rằng chư hầu có lễ chế, đóng ở bốn phương, minh công hà cớ gì mà đứng sau làm kẻ ác.

Hoàn Ôn cười, bảo rằng mình vô tri nên không biết, rồi triệt binh, đàm luận chuyện vui với Tạ An luôn một ngày. Việc đe dọa kinh sư của Hoàn Ôn chấm dứt. Sang năm 373, Hoàn Ôn chết, mối đe dọa Hoàn Ôn cướp ngôi kẻ như tiêu tan. Trước lúc chầu trời, Hoàn Ôn thượng thư lên Tấn triều cầu gia phong cửu tích. Tạ An chần chừ kéo dài thời gian. Không lâu sau Hoàn Ôn chết, không được cửu tích. Triều đình từ đó do Tạ An và Vương Thản Chi phò tá.

Sau cái chết của Hoàn Ôn, Tạ An tìm cách lấy lòng nhưng thực chất là chia rẽ nội bộ họ Hoàn, phong cho em Hoàn Ôn là Hoàn Xung từ Dương châu thứ sử là Kinh châu thứ sử, Kinh châu thứ sử Hoàn Hoát làm Chinh tây tướng quân, đốc quân sự năm châu Kinh, Dương, Ung, Giao, Quảng, chuyển đến Cô Thục; Cánh Lăng thái thú Hoàn Thạch Tú là Ninh Viễn tướng quân, đóng ở Tầm Dương..., bề ngoài ban chức trọng nhưng thực ra là cắt mất quyền lực của họ qua việc đưa người họ Hoàn ra khỏi ba châu quan trọng là Dương, Từ và Duyện.

Đẩy lui quân Tần

phải|Bản đồ Nam-Bắc năm 378. Đoạn màu đỏ chỉ ranh giới hai miền sau cuộc bắc phạt năm 384 của nhà Tấn Tạ An lại mời Trữ thái hậu (Hoàng hậu của Tấn Khang Đế) chấp chính. Tạ An được thăng làm Bộc xa, thứ sử Dương châu và thống lĩnh bộ lại, cùng phụ chính với Vương Bưu Chi và Vương Thản Chi. Tuy nhiên sang năm 375, Vương Thản Chi mất, Tạ An chỉ còn phụ chính một mình. Ông cho rằng việc triều chính phải do tất cả đại thần cùng tham gia bàn bạc, không hài lòng với việc giao hết triều đình cho hoàng tộc đảm nhiệm.

Năm 376, Tấn Hiếu Vũ Đế đã trưởng thành, bắt đầu tự quyết định chính sự. Tạ An được thăng lên chức Trung thư giám, Phiêu kị tướng quân Lục thượng thư sự, quyền hành như một vị tể tướng. Trong thời gian đầu làm tể tướng, Tạ An thấy rằng biên cương thường có giặc cướp hoành hành, hai châu Lương, Ích ít khi được yên, nhưng vẫn không dùng chính sách tiết kiệm, mặt khác ra lệnh cấm dân say rượu và tăng thuế. Khi cung thất bị hư hại, Tạ An ra lệnh tu sửa mặc dù trong nước vẫn còn bạo động nhưng nhân dân đều vui vẻ tuân theo. Về sau, Tạ An tiếp tục được thăng lên đến chức Thị trung, đô đốc năm châu Dương, Dự, Từ, Duyện, Thanh.

Cũng trong lúc đó, nước Tiền Tần đã thống nhất được miền bắc và lăm le đe dọa tới miền nam. Năm 373, vua Tần là Phù Kiên sai quân tấn công và chiếm Lương châu và Ích Châu. Sang năm 376, Tiền Tần tiêu diệt chư hầu của nhà Tấn là nước Bắc Lương, đánh tan của quân cứu viện của triều đình. Trước sự đe dọa của Tiền Tần, Tạ An cho di cư dân ở lưu vực sông Hoài Hà về nam. Sang năm 377, thành Quảng Lăng thiếu một tướng phòng thủ, Tạ An bèn tiến cử cháu là Tạ Huyền làm Duyện châu thứ sử, Vệ tướng quân, lo việc phòng thủ ở Giang Bắc, còn mình lo việc phòng thủ ở hạ du Trường Giang. Tạ Huyền ở Duyện châu tích cực tập hợp binh lực, về sau phát triển thành Bắc phủ quân, một đội quân nổi tiếng cuối thời Đông Tấn.

Năm 378, Phù Kiên sai con là Chinh Nam tướng quân Phù Phi dẫn 7 vạn quân tiến công thành Tương Dương, còn bản thân Phù Kiên thống lĩnh 10 vạn quân ở phía nam, phân quân tam lộ cùng tiến đánh Tương Dương. Trước lực lượng của quân Tần, đến tháng 2 năm 379, thành Tương Dương bị phá. Sau đó, Phù Kiên lại phái Bành Siêu tấn công Bành Thành và Hoài Nam. Trước tình thế ấy, Tạ An cho bố trí năm vạn quân phòng thủ chặt chẽ vùng Quảng Lăng. Cuối cùng, Tạ Huyền bốn lần liên tiếp đánh tan quân Tần, buộc Phù Kiên lui quân. Sau trận này, Tạ An được triều đình thăng làm Kiến Xương huyện công, Vệ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam ti..

Tháng 8 năm 383, Hoàn Xung dẫn 10 vạn quân bắc phạt Tiền Tần. Phù Kiên phái Phù Duệ, Mộ Dung Thùy, Diêu Trường và Mộ Dung Vĩ ra nghênh chiến, quân đông gần 90 vạn, lại lấy em là Phù Dung làm tiên phong. Tháng 7 cùng năm, Hoàn Xung rút về phía nam thì sang tháng 8, Phù Kiên lập tức nam hạ. Được tin, Tạ An sai Tạ Thạch là Đại đô đốc, Tạ Huyền làm tiên phong, cùng 8 vạn quân mã do Tạ Diễm, Hoàn Y chỉ huy, phân quân tam lộ nghênh địch. Đến tháng 11, Tạ Huyền phái Lưu Lao Chi dẫn 5000 quân, đánh bại quân Tần ở Lạc Giản, chém 10 tướng và diệt 5 vạn quân chủ lực của Kiên. Đến tháng 12 cùng năm, trận Phì Thủy nổ ra, Tạ Huyền, Tạ Diễm và Hoàn Y suất 7 vạn quân, tiêu diệt và đánh bại hoàn toàn lực lượng đông đảo của Tiền Tần, chém chết Phù Dung, giành được thắng lợi to lớn.

Bắc phạt mở đất

Sau trận thắng Phì Thủy, Tạ An chuẩn bị việc bắc phạt nhằm giành lại đất đai miền bắc. Ông nói: Tiểu nhân bối đại phá tặc, sau đó ổn định dân tâm ở Kiến Khang. Năm 384, Tạ An dâng biểu thỉnh bắt phạt, được triều đình thăng làm đô đốc quân sự 15 châu Dương, Giang, Kinh, Tư, Dự, Từ, Duyện, Thanh, Ký, U, Tịnh, Ninh, Ích, Ung, Lương.

Sau trận chiến Phì Thủy, Hoàn Xung cũng mất, bèn đem con cháu họ Hoàn phó thác cho Tạ An. Tạ An lại đổi Tạ Huyền làm Thứ sử hai châu Kinh, Giang, phong cho gia tộc họ Hoàn, thiết lập quan hệ giữa Tạ thị và Hoàn thị. Đến tháng 8, Tạ An sai Tạ Huyền đưa quân từ Quảng Lăng bắc tiến, thu phục các châu Duyện, Thanh, Tư, Dự, mặt khác các cánh quân họ Hoàn cũng giành lại Lỗ Dương, Lạc Dương cùng hai châu Lương, Ích. Ranh giới bắc nam được chuyển từ Hoài Hà-Hán Thủy đến phía bắc Trường Giang, lãnh thổ Đông Tấn được mở rộng đáng kể.

Qua đời

Sau thắng lợi ở lần bắc phạt, quyền thế họ Tạ trở nên rất lớn, Tạ Thạch làm Trung thư lệnh, Tạ Huyền làm Tiền tướng quân, sau lại được thăng làm Thái bảo, làm cho nội bộ hoàng gia lo ngại, nhất là Cối Kê vương Tư Mã Đạo Tử, con trai thứ của Giản Văn Đế, cộng thêm gương của Hoàn Thạch bị mất chức. Trước việc ấy, Tạ An quyết định từ bỏ quyền lực để tránh gây mâu thuẫn. Năm 385, tháng 4, Tạ An dâng biểu xin ra trấn Quảng Lăng, đốc suất bắc phạt. Nhưng không lâu sau, Lưu Lao Chi bị Mộ Dung Thùy đánh bại ở Nghiệp Thành, cuộc bắc phạt chấm dứt, Tạ An bèn đổi tiến công sang phòng thủ lại phòng tuyến Hoàng Hà, củng cố những vùng đã chiếm được.   Tháng 8 năm 385, Tạ An bệnh nặng, bèn trở về Kiến Khang chữa trị. Đến ngày 22 năm đó, ông qua đời ở kinh đô, hưởng thọ 66 tuổi.

Lễ tang của Tạ An được tiến hành theo nghi lễ giống Hoắc Quang đời Hán, Vương Đạo và Hoàn Ôn. Tấn Hiếu Vũ Đế đích thân đến viếng, ban ông tước Lư Lăng quận công, thụy là Văn Tĩnh.

Gia đình

Cha: Tạ Bầu Anh em Tạ Dịch, tự Vô Dịch, anh trưởng Tạ Cư, tự Cư Thạch, mất sớm Tạ Vạn (320 - 361), tự Vạn Thạch, em thứ tư Tạ Thạch (327 - 389), tự Thúc Thạch, tham gia trận Phì Thủy, em thứ năm Tạ Thiết, tự Thiết Thạch, làm quan đến chức Thái thú Vĩnh Gia Vợ: Lưu thị, em gái Lưu Đàm, thuở hàn vi thường cùng Tạ An bàn luận thế sự. Tính cách mạnh mẽ, không chịu cho chồng nạp thiếp. Về sau mất được an táng theo nghi lễ tương đồng với Tạ An Con cái Tạ Dao, sau nối tước Lư Lăng quận công, làm quan tới chức Lang Nha vương hữu. Tạ Diễm, làm quan đến chức Vệ tướng quân, thứ sử Từ châu, Cối Kê nội sử, đô đốc quân sự năm quận, tước Vọng Thái công. Sau bị Tôn Ân giết chết, được truy tặng Thị trung, Tư không Hai con gái, lấy Vương Mân và Vương Quốc Bảo.

Di sản

Tạ An để lại cho đời sau nhiều áng văn hay, nổi tiếng như hai bài phú Lan Đình thi... Ngoài ra, ông còn là tác giả của nhiều câu danh ngôi nổi tiếng như :Tấn tộ tồn vong, thử tại nhất hành :Tiểu nhân bối phá đại tặc. :''Khả tướng đương trục, liễu kì thử xử :Kiến chi nãi sử bất nhân yếm, nhiên xuất hộ khứ, bất phục sử nhân tư. :Thiên địa vô tri, thử bá đạo vô nhân. :Tần nhậm Thương Ưởng, nhị thế nhi vong.

Ngoài ra Tạ An cũng là một nhà thư pháp xuất sắc, được hậu thế ca ngợi. Thư pháp của ông có nét giống với đại văn hào Vương Hi Chi. Ông tỏ ra cảm động khi nghe thuyết Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài, bèn thượng tấu đề chữ khen ngợi.

Đánh giá

phải|Chân dung Tạ An

Hậu thế thường so sánh Tạ An với tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch bởi hai người có rất nhiều nét giống nhau như cùng làm quan đến chức tể tướng, tên tự của Tạ An trùng với húy của Vương... Vương An Thạch về sang ẩn cư ở Kim Lăng đã có lần đến nơi ở của Tạ An lúc sinh thời và bày tỏ niềm khâm phục đối với ông.

Nhà thơ Lý Bạch thời nhà Đường có thơ khen Tạ An :Tam xuyên bắc lỗ loạn như ma/Tứ hải nam bôn tự Vĩnh Gia/Đãn dụng đông sơn Tạ An Thạch/Vi quân đàm tiếu tĩnh hồ sa Ngoài ra còn có nhiều bậc danh nhân khác cũng đánh giá cao Tạ An như Tô Thức, Trần Lượng đời Tống, Vương Phu Chi đời nhà Minh,... Dân gian từ đó đến nay thường gọi Tạ An với những danh xưng kính trọng như Tạ Thiên tuế, Tạ Thánh vương, Tạ vương công, Tạ lão nguyên suất, Quảng Huệ thánh vương, Quảng Huệ tôn vương, Quảng Ứng thánh vương, Quảng Ứng tôn vương, Hiển tế linh vương... Thời Đường, tướng Trần Nguyên Quang dẫn quân tiến đến vùng Chương Châu, thăm đất hương hỏa của Tạ An đã tôn ông làm Quảng Huệ vương. Từ đó, danh xưng Quảng Huệ vương trở nên nổi tiếng và nhiều người truyền tụng từ vùng Chương Châu đến Phúc Kiến, Nam Dương và cả đảo Đài Loan. Nhiều nơi ở các vùng đất này đã lập miếu thờ cho ông và tôn sùng như một vị thần.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|Tượng Tạ An **Tạ An** (chữ Hán: 謝安, 320 - 385), tên tự là **An Thạch** (安石), nguyên quán ở huyện Lịch Dương, Trần quận, là nhà chính trị, quân sự lớn và đại thần
**Tạ An Khương** là một xã thuộc tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Xã Tạ An Khương có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Tân Thuận *Phía tây giáp xã Đầm
**Tạ An Khương Đông** là một xã cũ thuộc huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Xã Tạ An Khương Đông nằm ở phía bắc huyện Đầm Dơi, có vị trí
**Tạ** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á, chủ yếu là Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 사, Romaja quốc ngữ: _Sa_) và Trung Quốc (chữ Hán: 謝, bính âm: _Xiè_). Trong
**Tạ Đạo Uẩn** (chữ Hán: 謝道韞; _không rõ sinh mất_), lại có thuyết tên **Thao Nguyên** (韜元), biểu tự **Lệnh Khương** (令姜), Tấn thư lại nói biểu tự vốn là **Đạo Uẩn**, được biết đến
**Tạ Huyền** (chữ Hán: 謝玄; 343-388), tên tự là **Ấu Độ** (幼度), là đại tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Dương Hạ, Trần quận, nay là huyện Thái Khang, tỉnh Hà
nhỏ|phải|Máy tập tạ với cấu trúc dây kéo cáp để hỗ trợ cho bài tập [[cuộn bắp tay thay vì sử dụng tạ đơn, người tập chỉ việc kéo gập duỗi tay để sử dụng
Bức tranh _The First Thanksgiving at Plymouth_ (_Lễ Tạ ơn đầu tiên tại Plymouth_) của [[Jennie A. Brownscombe năm 1994]] **Lễ Tạ ơn** (tiếng Anh: _Thanksgiving_) là một ngày lễ hàng năm được tổ chức
**Tạ Đình Phong** (tiếng Trung: 謝霆鋒, tiếng Anh: Nicholas Tse Ting-Fung; sinh ngày 29 tháng 8 năm 1980) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, đầu bếp người Hồng Kông. Anh chính thức
**Tạ Quang Cự** (chữ Hán: 謝光巨; 17/9/1772 - 1862) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Tạ Quang Cự quê gốc tại tỉnh Nghệ An, sau dời về ở
**Tạ Thu Thâu** (chữ Hán: 謝秋收; 5 tháng 5 năm 1906–1945) là một nhà cách mạng chủ nghĩa Marx người Việt đầu thế kỷ 20, một lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ thời sơ khai
**Cử tạ Olympic**, hay gọn hơn là **Cử tạ**, là một môn thể thao trong đó vận động viên thi đấu (gọi là lực sĩ hay đô cử) cố gắng nâng một vật bao gồm
**Tạ Diễm** (, ? - 400), tên tự là Viện Độ, người Dương Hạ, Trần Quận , tướng lĩnh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Công thần Phì Thủy Diễm là con
nhỏ|phải|Bài tập _gập người kéo tạ_ (_Bent-over row_) giúp tăng cường sức khỏe, sức mạnh [[thể lực]] nhỏ|phải|Thực hiện bài gập người kéo tạ đòn (_Barbell row_) nhỏ|phải|Gập người kéo tạ tay (_Dumbbells_) **Gập người
**Tạ Thị Kiều** (1938 - 2012) là một nữ Đại tá quân đội, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và là một trong những thanh niên tiêu biểu của miền Nam được lựa
Tiến sĩ **Tạ Chí Hồng** (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1952) là giảng viên chính chuyên ngành triết học, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nghiên cứu Phật học tại Việt Nam
**Tạ Khả Dần** (chữ Hán: 谢可寅, phiên âm: _Xie Keyin_, tên tiếng Anh: _Shaking Chloe_, sinh ngày 04 tháng 01 năm 1997 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc) là một diễn viên, ca sĩ,
**Tạ Quang Bửu** (1910–1986) là giáo sư, nhà khoa học Việt Nam, người đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc
**Tạ Phạm Cảnh** (chữ Hán: 謝梵境) là hoàng hậu của Lưu Tống Thuận Đế (劉宋順帝) Lưu Chuẩn (刘准) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Tạ Phạm Cảnh xuất thân danh môn, cha là
**Tạ Uyên** (1898-1940) là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông là một trong ba Bí thư chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Ninh Bình và từng là Bí thư xứ ủy Nam
**Tạ Hữu Yên** (các bút danh là **Lê Hữu**, **Xuân Hữu**, **Ðông Xuân**, **Cử Tạ**; 1927 - 2013) là nhà thơ, nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ
**Tạ Thị Bích Loan** (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1968), thường được biết đến với tên gọi **Tạ Bích Loan**, là một nhà báo, người dẫn chương trình, đạo diễn truyền hình, biên tập
**Tạ Quang Huy** là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an Việt Nam. Ông nguyên là Phó Chủ
**Tạ Gia Tập** (chữ Hán giản thể: 谢家集区, Hán Việt: _Tạ Gia Tập khu_) là một quận thuộc địa cấp thị Hoài Nam, tỉnh An Huy, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này nằm
**Tạ Anh Tuấn** (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1969) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban
**Tạ Hiện** (chữ Hánː 謝現; 1841 - 1887 hoặc 1893), còn có tên là **Tạ Quang Hiện**, quê tại thôn Quang Lang xã Thụy Hải, huyện Thụy Anh (nay thuộc huyện Thái Thụy), tỉnh Thái
**Tạ Ký** (1928-1979) là nhà thơ của Việt Nam Cộng hòa, kiêm giáo viên Trường Trung học Petrus Ký, Sài Gòn. Tập thơ _Sầu ở lại_ của ông đã đoạt giải nhất bộ môn Thơ
**Tạ Đình Đề** (còn có tên là **Lâm Giang**, sinh 8 tháng 8 năm 1917 tại Hà Tây – mất 17 tháng 1 năm 1998 tại Hà Nội) là nhà cách mạng Việt Nam. Ông
**Tạ Quang Ngọc** (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1944) là nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII và khóa
**Tạ Nam**(,6 tháng 11 năm 1983),một nữ người dẫn chương trình và ca sĩ người Trung Quốc. ## Tiểu sử Năm 2005, cô giành giải quán quân "Miêu nữ quyến rũ" và hiện là người
**Tạ Minh Tâm** (sinh ngày 17 tháng 9 năm 1960 tại Long Xuyên, An Giang) là một ca sĩ người Việt Nam thuộc thể loại opera, nhạc cách mạng, đồng thời ông cũng tham gia
**Tạ Quang Thắng** (sinh 28 tháng 4 năm 1988) là một nam ca sĩ người Việt Nam, từng giành được 4 đề cử cho giải Cống hiến. Năm 2005, cùng với người bạn Hoàng Anh
Giáo sư, Tiến sĩ **Tạ Ngọc Tấn** sinh ngày 01 tháng 01 năm 1954 tại làng Phú Hậu, xã Thụy Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong mộ gia đình nông dân có
**Giải thưởng Tạ Quang Bửu** là một giải thưởng của Bộ Khoa học và Công nghệ được tổ chức 3 năm một lần nhằm khích lệ và tôn vinh các nhà khoa học có thành
**An Nam Độc lập Đảng** (tiếng Pháp: _Parti Annamite d'Indépendance_, **PAI** / tên gọi ban đầu: **Đảng Việt-Nam Độc-lập**) là một tổ chức chính trị của người Việt thành lập ở Pháp vào tháng 6
**Tạ Thục Vi** (; ; sinh ngày 4 tháng 1 năm 1986) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Đài Loan. Cô đạt được thứ hạng cao nhất ở vị trí thứ
**_Án lệ 33/2020/AL_** về trường hợp cá nhân được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là án lệ công bố thứ
**Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam**, được lập ra theo Điều 89 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, có nhiệm vụ tham mưu cho Chủ tịch
**Vụ án Năm Cam và đồng phạm** hay **Chuyên án Z5.01** là vụ án về tội phạm có tổ chức đặc biệt, có tính đặc thù, đây là một vụ án lớn và phức tạp,
Vụ án **Hello Kitty** () là một vụ án xảy ra tại Hồng Kông vào mùa xuân năm 1999 khi một nữ nhân viên hộp đêm bị bắt cóc tại Khu nhà Lệ Dao, bị
**Lịch sử hành chính An Giang** được xem là bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832, khi thành lập 12 tỉnh từ các dinh trấn ở miền Nam. Sau
**Vụ án Vạn Thịnh Phát** (hay **Đại án Vạn Thịnh Phát**), cũng được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh gọi là **vụ án Trương Mỹ Lan và đồng phạm**, là một vụ
**Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan Công an thành phố trực thuộc Trung ương (Loại đặc biệt) ở Việt Nam, thuộc hệ thống tổ chức của lực lượng Công an nhân
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Chu Văn An** (còn được gọi là **Trường Chu Văn An**, **Trường Bưởi**, **Trường Chu** hay trước đây là **Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An,**
Theo đó, nguồn vốn thực hiện dự án bao gồm vốn vay từ Ngân hàng Thế giới và vốn đối ứng từ ngân sách tỉnh, thời gian triển khai trong giai đoạn 2026-2029. Theo UBND
phải|Cổng Nhân Môn - Đàn Kính Thiên Tràng An phải|Cổng Địa Môn - Đàn Kính Thiên Tràng An phải|Cổng Thiên Môn - Đàn Kính Thiên Tràng An **Đàn Kính Thiên Tràng An** là công trình
nhỏ|phải|Một giỏ nấm ăn Một vài loại nấm ăn được bán tại [[chợ phố Münster, Đức.]] **Nấm ăn** chỉ về các loại nấm có thể ăn được, dùng làm thực phẩm, nguyên liêu cho nấu
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
**Cục Công nghiệp an ninh (H08)** trực thuộc Bộ Công an Việt Nam có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công an thống nhất quản lý nhà nước về công nghiệp an ninh, doanh nghiệp