✨Gibson (sứ giả Miến Điện)
George Gibson (?-1825) (sử nhà Nguyễn gọi là Hợp Thần Thăng Thụ hoặc Hợp Thời Thăng Thụ)
Bản tường trình về sứ mệnh ở Việt Nam của Gibson có chứa nhiều thông tin đương thời về Việt Nam, Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi, Trần Nhật Vĩnh, Trương Tấn Bửu, Trần Văn Năng, ...
Tiểu sử
Gibson là một người gốc Madras, có cha là người Anh, rất minh mẩn và sinh sống ở Miến Điện lâu năm. Ông giữ chức vụ tương đối lớn ở vương quốc Ava và thông thạo ngôn ngữ, tập quán Miến Điện. Gibson thông thạo tiếng Bồ Đào Nha, Hindi và Telinga (có lẽ là tiếng mẹ đẻ của ông). Gibson trông có vẻ như là một người Miến Điện chính thống chứ không phải người Anh.
Đệ nhị Kỷ - Quyển XXIVĐại Nam liệt truyện chép tương tự Thực lục nhưng có bổ sung một số thông tin.Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 [1823], mùa đông, tháng 11,
...
Quốc vương nước Miến Điện sai sứ đến thông hiếu.
Khi trước Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Độ đi thuyền buôn sang các nước bên ngoài nước Hồng Mao tìm mua đồ binh dụng, bị gió bạt đến trấn Đào Quai nước Miến Điện. Quan trấn ấy bắt Độ đưa về thành An Hoà. Vua nước ấy ngờ Độ là gián điệp của nước Xiêm, xét hỏi nghiêm ngặt. Đến lúc biết là người nước ta, bèn hậu đãi đưa về; nhân sai bồi thần là bọn Hợp Thần Thăng Thụ, Nhĩ Miêu Ty Chí, Tu Giá Nô Tha đem quốc thư và phẩm vật đến dâng (1 cái ấn vàng, 40 cái nhẫn vàng, 1 cái hộp trầu sơn đỏ, 1 chuỗi hạt châu không cháy, 1 bức chiên tơ đỏ, trừu tơ đại hồng và trừu tơ tố hồng mỗi thứ 2 bức). Sứ đến Gia Định. Thành thần sai dịch thư tâu lên. Thư lược nói: Trước đây nước ấy vẫn muốn giao hiếu tỏ lòng thành, khoảng năm Gia Long đã 2 lần sai sứ đi, nhưng không đến nơi được. Nay nghe nhà vua mới nối ngôi, nước ấy vui mừng lắm, dâng thư lên tâu, và xin nước ta tuyệt giao với nước Xiêm.
Vua vời đại thần bàn bạc. Bọn Nguyễn Đức Huyên, Trần Văn Tính cho là nước Miến Điện cùng nước Xiêm thù nhau lâu đời, nay đến thông hiếu, ý đồ có thể biết được. Vả ta với nước Xiêm đã hoà hiếu với nhau, mà lại giao thông với nước Miến Điện thì người Xiêm chưa chắc không ngờ, không bằng hậu tứ mà bảo về. Bọn Nguyễn Hữu Thận, Nguyễn Văn Hưng cho rằng dắt díu người phương xa đến, đời xưa lấy làm răn; nhưng kẻ mến nghĩa mà đến, cũng không nên cự. Huống chi Miến Điện thù với Xiêm, không can thiệp gì đến ta, ta khước từ Miến Điện, người Xiêm chưa chắc cám ơn ta. Xin cứ nhận lấy.
Vua dụ rằng : "Trẫm nghĩ Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta sang Xiêm, vua trước nước ấy đã sai quân giúp một lần, nhưng sai tướng không được người khá, đến đâu cũng cướp bóc, làm mất lòng dân, nhân đó bị giặc đánh tan phải chạy, từ đó về sau sợ oai giặc, không dám hé răng nói đến việc xuất binh nữa, cho nên Hoàng khảo ta, khôn ngoan tính trời, biết cơ đã đến, không cần phải mượn quân của họ mà bị kiềm chế, bèn tự quyết định, liền đêm đi đường biển về nước. Từ đấy chiêu tập những người cựu thuộc, rộng nộp những người mới đến, oai trời đến đâu, giặc đều tan vỡ, rồi lấy cả nước, thống nhất giang sơn, có thèm nhờ một mũi tên một tấc gươm của nước Xiêm đâu. Việc ấy chẳng những quan dân nước ta đội oai trời, mà các nước ngoài biển đều phục sức thần. Nhưng Hoàng khảo ta lại nghĩ tấm lòng tốt buổi đầu của người Xiêm, họ lại là láng giềng, nên từ trước đến giờ vẫn cho giao hiếu. trẫm noi theo phép cũ, há lại nghe lời nói ngoài mà tự mình tước bỏ nghĩa láng giềng. Nếu ngày khác nước Xiêm mưu điều không tốt, mà gây hấn ở ngoài biên, thì đã có lẽ phải trái, bên nào phải thì khoẻ, trời sẽ giúp cho, mà việc làm một nửa thu công gấp đôi. Nay tự trẫm xem ra thì quyết không có lẽ bỏ giao hiếu gây hiềm thù để nhọc quân lính. Vậy lời xin của nước Miến Điện không cho thi hành. Nhưng nghĩ sứ thần vượt biển đi xa, giữa đường lại gặp hoả tai, nên trả lại đồ cống mà thưởng cho quốc vương và sứ thần" (Thưởng cho quốc vương : quế 23 cân, sa, lụa, the, trừu mỗi thứ 100 tấm, đường cát 1.000 cân. Thưởng cho sứ thần : Chánh sứ, bạc 100 lạng ; Phó sứ, bạc 80 lạng ; áo mở bụng bằng đoạn mãng mỗi người 1 cái ; quần mỗi người 1 cái. Quân đi theo 40 người, mỗi người đều 4 lạng bạc, áo mở bụng bằng đoạn lông đỏ và quần, mỗi người mỗi thứ 1 cái). Sai đình thần viết thư trả lời. Đình thần lại xin trong cống phẩm nhận 1 cái nhẫn vàng (khảm hồng bảo thạch) để yên ủi tình người xa.
Vua theo lời xin. Sai Quản cơ Nguyễn Văn Uẩn và Chánh tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đem binh thuyền và mang lương tiền 6 tháng, đưa sứ giả đến địa đầu Miến Điện thì về. Lại sai bộ Lễ đem việc ấy báo cho nước Xiêm. Người Xiêm gửi thư đến tạ.
Năm Minh Mạng thứ 4, Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Độ đi thuyền của người buôn là Phan Đạt đến các nước bên ngoài nước Xích Mao kiếm mua đồ dùng về việc binh, nhân bị bão dạt đến trấn Đào Oai ở nước Miến Điện, Trấn mục nghi là người do thám nước Xiêm, bắt đưa đến thành An Hòa, vua nước ấy nghiêm ngặt vặn hỏi, khi biết là người nước ta, bèn hậu đãi cho về, nhân đó sai bọn bồi thần là Hợp Thời Thăng Thụ, Nễ Miên Ty Chí, Tu Gia Nô Tha mang quốc thư phẩm vật đến dâng (ấn vàng 1 chiếc, nhẫn vàng đeo tay 40 chiếc, hộp trầu sơn 1 chiếc, chuỗi hạt xâu 1 xâu, chiên tơ đỏ 1 bức, chừu tơ đại hừu tơ trơn màu hồng đều 2 bức). Trong khi đi đường thuyền của sứ thần bị cháy, lại thuê thuyền khác chở đến Gia Định. Thành thần dịch tờ thư tâu lên, đại lược nói: Từ trước tới nay, nước ấy vẫn muốn đem lòng thành thông hiếu, khoảng năm Gia Long, từng hai lần sai sứ, vẫn không đến được. Nay nghe nhà vua mới nối ngôi, cả nước khôn xiết vui mừng dâng thư tâu lên, mong xin tuyệt hòa hiếu với nước Xiêm. Vua triệu đại thần thương lượng, bọn Nguyễn Đức Huyên, Trần Văn Tính cho là nước Miến Điện cùng với nước Xiêm vẫn đời đời thù hằn, nay đến nộp lễ vật, đủ rõ ý kiến. Vả ta với nước Xiêm đã trót cùng giao hiếu, mà lại cùng với Miến Điện thông hiếu nữa, người Xiêm vị tất không nghi, chi bằng hậu ban cho rồi bảo cho về. Bọn Nguyễn Hữu Thận, Nguyễn Văn Hưng cho là: Chiêu nạp người cõi xa, đời xưa vẫn có lời răn, nhưng họ mến nghĩa mà đến cũng không nên cự tuyệt, huống hồ Miến Điện thù hằn với Xiêm, đối với ta có can thiệp gì, khước đi thì chưa chắc người Xiêm đã ơn ta, nhân đó cứ nhận.Việc giao thiệp với Miến Điện thông qua sứ mệnh của Gibson là một trong những bằng cớ đầu tiên mà nhà Nguyễn dùng để kết tội chém và thắt cổ Lê Văn Duyệt. với một người chị em gái của vua Minh Mạng, tức là con gái của cố vương Gia Long. Ông cũng cho biết thêm là ngài Lê Văn Duyệt khi đến kinh đã đề nghị cho mở kho lương thực: giá gạo đã giảm xuống còn nửa quan tiền một đấu. Sự thiếu đói thường gây ra bạo loạn ở Tonquin, và các thủ lĩnh khởi nghĩa sẽ không đầu hàng cho tới khi họ được nói chuyện với quan Tổng trấn.Vua dụ rằng: Người Xiêm cùng với ta vốn dốc tình lân hiếu, há nên riêng nghe lời của nước ngoài mà bỏ tình giao hiếu mang lấy thù hằn ư? Lời xin của Miến Điện không chuẩn cho thi hành. Bèn trả lại cống phẩm mà thưởng cho Quốc vương và sứ thần các phẩm vật (thưởng cho Quốc vương 23 cân quế, sa lụa mỏng và trừu 100 tấm, đường cát 1000 cân). Thưởng cho sứ thần: Viên chánh sứ bạc 100 lạng, viên phó sứ bạc 80 lạng, áo mỗ bụng bằng đoạn thêu con mãng xà đều mỗi người 1 chiếc, quần đều 1 chiếc, viên bồi sứ có 5 người đều mỗi người 60 lạng bạc, áo mỗ bụng bằng thung thúc mỗi người 1 chiếc, quần đều 1 chiếc; quân theo hầu 40 người, mỗi người đều có 4 lạng bạc, áo mỗ bụng bằng đoạn lông màu hồng, mỗi người đều 1 chiếc, quần đều 1 chiếc. Sai đình thần viết thư trả lời, và sai Quản cơ là Nguyễn Văn Uẩn, Chánh tuần hải đô doanh là Hoàng Trung Đồng quản xuất đem binh thuyền cấp cho tiền lương 6 tháng, tiễn sứ giả đến đầu địa giới Miến Điện trở về.
Năm Minh Mạng thứ 5, nước Anh-cát-lợi xâm lấn nước Miến, vua nước Miến đem binh đón đánh, quân Anh thua to. Rồi sau người Anh lại đem binh thuyền vào Nộ cảng (tức cửa sông Nộ). Người Miến cố sức đánh chống lại, vì bị pháo đạn oanh tạc, quân bị tan vỡ. Quân Anh sắp tới gần đô thành, vua Miến bất đắc dĩ phải nghị hòa, cắt nhượng chỗ đất rộng ở bãi biển làm nơi đỗ thuyền buôn bán của người Anh, người Miến thường để lòng báo phục nhưng chưa thể làm được.
Sử nhà Nguyễn chép về lễ cưới như sau:. Diard cũng cho sứ đoàn biết rằng ông ấy bị gọi về triều gấp là do vụ việc thiết lập ngoại giao này. Vị Bộ trưởng Người ngoại quốc kia đã phát biểu trước triều đình rằng ông ta phản đối việc kết giao với Miến Điện, bởi nó sẽ làm người Xiêm cảnh giác và thù nghịch với Việt Nam. Nhà vua Minh Mạng sau khi hỏi ý kiến triều thần đã đi đến kết luận là: người Miến bị công khai thừa nhận là kẻ thù của người Xiêm. Quan Tổng trấn Lê Văn Duyệt và hai vị quan người Pháp Vanier và Cheneaux thì lại ủng hộ liên minh với Miến Điện. Họ cho rằng Miến là cựu thù của Xiêm, và Việt Nam có thể hưởng lợi ở tỉnh Bantaibang của Cao Miên, chưa kể Việt Nam còn có thể giao thương với Miến Điện. Cuộc thảo luận diễn ra theo hướng bất lợi cho liên minh với Miến, và Diard không hiểu được nguyên do của sự cương quyết từ chối thiết lập ngoại giao của nhà vua. Diard cho rằng kết quả cuộc thảo luận là hệ quả của sự tự cao ngông cuồng của triều đình nhà Nguyễn, những kẻ kiên quyết cho rằng chỉ có họ và người Trung Quốc là người văn minh, còn tất cả mọi người còn lại trên thế giới là man di mọi rợ. Như đối với người Xiêm, vua Minh Mạng cho rằng ông ta có thể chinh phục nước họ tức thì nếu muốn. Trong triều đình nhà Nguyễn, không một ai có đủ thông minh trừ ngài Tổng trấn Lê Văn Duyệt, người thường hay cười trước sự ngu xuẩn của các vị quan khác. Thậm chí Lê Văn Duyệt còn gợi ý nhẹ nhàng nhà vua Minh Mạng về ý định hoang đường của nhà vua, bởi thực tế thì Minh Mạng cũng chỉ là một chư hầu của hoàng đế Trung Hoa mà thôi.
Ong-tan-Hiep
Trong nhật ký của Gibson, một viên quan được nhắc đến qua tên gọi Ong-tan-hip hoặc Ong-tan-Hiep, có chức vụ là Thư ký của quan Tổng trấn và được Lê Văn Duyệt yêu thích.
Người này có thể là Lê Văn Khôi hoặc Trần Nhật Vĩnh. Theo Đại Nam thực lục, năm 1820, Tham hiệp Thanh Hoa là Trần Nhật Vĩnh được cho làm Thiêm sự Hình bộ, theo thành Gia Định chuyên làm việc từ chương dưới quyền Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mãi đến năm 1825, Cai đội Lê Văn Khôi mới được phong Phó vệ úy. Ong-tan-Hiep có lẽ là Ông Tham Hiệp, tức Trần Nhật Vĩnh.
Ong-tan-Hiep được quan Tổng trấn nuôi nấng từ thuở còn thơ ấu. Ong-tan-Hiep là kẻ có tham vọng, năng lực và nóng nảy. Ong-tan-Hiep bị tất cả quan viên thù ghét, mặc cho Ong-tan-Hiep là kẻ giàu có và quyền lực. Các vị quan có cấp bậc cao hơn Ong-tan-Hiep, khi đến nhà Ong-tan-Hiep vẫn phải đứng chờ ngoài cửa. Không ngày nào mà không có người mang quà cáp sang nhà biếu Ong-tan-Hiep. Sau đó Ong-tan-Hiep lấy số quà đó đem qua cửa hàng của mình ở kế bên, cũng gần chợ, để bán lại.
Gibson thuật lại một mẩu chuyện về Ong-tan-Hiep.
Ngày 23 tháng 11 năm 1823, ... xảy ra vụ bắt giữ Ong-Quan-Tabaonhy và vợ, đó là kết quả từ âm mưu của Ong-Tan-Hiep, viên Thư ký yêu thích của quan Tổng trấn... Nguyên nhân thù ghét giữ Ong-tan-Hiep và Ong-Quan-Tabaonhy là do:Ban đầu, Ong-Quan-Tabaonhy bỏ ra một số tiền lớn để có thể cưới một bà góa phụ xinh đẹp, khi ông ta cạn tiền và sắp thành công thì ông Thư ký nhảy vào. Ông Thư ký trẻ hơn, đẹp trai hơn Ong-Quan-Tabaonhy, lại được quan Tổng trấn yêu thích nên bà góa phụ đổi ý và không chịu lấy Ong-Quan-Tabaonhy nữa. Hai ông quan từ đó không bao giờ là bạn nữa và tìm cách hại nhau khi có thể. Ông Thư ký sau đó phát hiện ra Ong-Quan-Tabaonhy ăn chặn tiền lương của công nhân đào kênh Hà Tiên. (Kết quả là vợ chồng ông này bị bắt.) Một ngày nọ, người vợ lẽ của Ong-Quan-Tabaonhy tên Che-day gặp và nói chuyện với ông Thư ký ngoài đường lộ. Bà này xin được đến nhà ông Thư ký bàn chuyện và ông này đồng ý. Một buổi tối lúc 8 giờ, bà này đến nhà ông Thư ký và xin nói chuyện riêng hai người trong phòng để bà này cầu xin chuyện thả chồng bà ta ra. Một lúc sau, cả nhà nghe tiếng "hiếp dâm" và "giết người". Khi mọi người đến nơi, bà này cáo buộc bị ông Thư ký cưỡng hiếp khi đang cố xin thả chồng ra. Sau đó bà ấy chạy ra ngoài đường và la hét tiếp, bà ấy cũng cho mọi người thấy lọn tóc mình cắt được từ ông Thư ký. Buổi sáng hôm sau, bà này đến chỗ quan Tổng trấn kêu oan và trưng lọn tóc ra làm chứng. Biết rằng tội gian dâm sẽ bị xử chết, quan Tổng trấn xem xét và thấy rằng vụ việc này là là âm mưu của bà vợ lẽ và chồng nhằm mưu hại ông Thư ký nên hạ lệnh phạt bà ấy 100 roi. Bà vợ lẽ này chắc chưa tới 20 tuổi.
Địa lý và lịch sử Việt Nam
Theo hiểu biết của Gibson về địa lý Việt Nam, về phía Bắc của sông lớn Kamboja (sông Cửu Long), trong tiếng Miến Điện là Meh-koan-mit, là các vùng đất chịu quản lý của vua Ava, nhất là Kiang-ung-gi và Kiang-si. Từ những nơi đó, việc giao thương có thể dễ dàng thiết lập giữa miền Nam Việt Nam với Miến Điện.
Từ Kiang-ung-gi đến Tonquin (miền Bắc Việt Nam), tiếng Miến Điện là Kio-pagan, sẽ dễ dàng liên lạc nếu có đường cắt qua. Nước Lao-lan-tao trong tiếng Việt, Len-jen trong tiếng Miến, là trở ngại duy nhất. Người Lào sống ở bờ đông sông Mêkong và là đồng minh của Xiêm.
Từ thủ đô Ava đi thẳng sang hướng Đông đến sông Mêkong không tới 100 dặm. Mất 20 ngày để đến Kiang-ung-gi; và từ đó băng qua Lao-lan-tao và Sandapuri, đến Bak-tin (Bắc Thành), hay Kachao (Kẻ Chợ), thủ phủ của Tonquin, mất hết 70 dặm; và chỉ 1 phần 3 đoạn đường nằm dưới sự quản lý của người Lào. Dãi núi ngăn cách Lào và các vùng đất của Việt Nam là nơi khởi nguồn con sông lớn của Tonquin.
Người Cochin China đích thực là hậu duệ từ người Tonquin khi chinh phục phương Nam. Lãnh thổ Cochin China hiện tại hiếm khi cách bờ biển quá 10-15 dặm, và bị bao bọc ở phía Tây bởi Lào hoặc Kamboja. Chủng tộc bản địa, những người định cư từ tỉnh Quinhone (Quy Nhơn) tới Cape St. James, là người Loi (Lợi). Họ sống trong rừng núi và thần phục nhà vua Cochin China. Tộc trưởng của họ sống ở Phan-ri (Phan Rí), cách bờ biển 10 dặm. Họ theo tôn giáo Hindu và di tích của tôn giáo này có khắp nơi như đền đài, bích hoạ và văn bia. Quốc gia của họ được người Trung Quốc gọi là Champa.
Tỉnh Dong-nai có tộc người gốc là Moi (Mọi), sống trong vùng núi, nghe nói có số lượng nhiều hơn người Việt. Họ theo đạo Phật.
Phía Tây Cape St. James, gần vĩ độ 14 Bắc, là nước Kamboja đích thực. Phía Bắc của nó giáp Lào.
Từ Athien tới Tung-yai trên bờ biển, người dân được gọi là người Kom (Khmer Krom). Gibson nghĩ đó là nhầm lẫn, và Kom là tên khác của người Kamboja.
Nước Kamboja theo cách gọi của người bản xứ là Namvuam, và trong ngôn ngữ Sanscrit, hoặc Bali, gọi là Maha Notkorlorot Kamer, còn người Việt gọi họ là Komen (Cao Miên).
Vào thế kỷ thứ 10, Kamboja là quốc gia hùng mạnh. Dong-nai, Phan-ran, và cả Xiêm là chư hầu của họ; nhưng ngay sau đó, nước này tàn lụi, và Xiêm phá vỡ ách cai trị của Kamboja để giành độc lập.
Người Tonquin và Cochin China là cùng một giống dân, cùng một ngôn ngữ. Thời cổ đại, vua Tonquin (Đàng Ngoài) bổ nhiệm một vị Tổng trấn đến các tỉnh phía bắc Đàng Trong, kéo dài đến Quinhone và đặt bản doanh ở Huế. Người này (Nguyễn Hoàng?), là ông tổ của các vị vua Nguyễn hiện tại, nổi dậy, lặt đổ ngai vàng và chém đầu vua Tonquin, chiếm lấy nước ông ta.
Kẻ nổi dậy chiến thắng ấy được Trung Quốc công nhận là chư hầu và cho triều cống. Theo thời gian, ông ta và hậu duệ chinh phục từ tay người Kamboja các tỉnh Quin-hone, Nhatrang, Phan-ran, và Phu-yen, theo cách hiểu của người Trung Quốc là nước Champa. Những tỉnh ấy có cư dân là người Loi, theo đạo Hindu, bây giờ sống trong rừng núi do bị chèn ép bởi người Cochin China.
Gần đây, người Cochin China chinh phục tỉnh Dong-nai, và thiết lập các thuộc địa với người dân của họ ở Que-duoc (Châu Đốc), Sa-dek (Sa Đéc), Mitho, Camao (Cà Mau), Saigun, Dountain, và nhiều chỗ khác.
Vùng đất từ Sa-dek tới Athien vừa mới đây đã bị đổi thành một tỉnh của Cochin China với tên Ya-din-tain (Gia Định Thành).
Vua hiện tại của Kamboja tên là Luang-hang-tek (Ang Chan II), sống ở thành phố Kalompé, nơi có không quá 5.000 dân. Kinh đô cũ Pong-luang cách đó 15 dặm.
Người bản xứ của Dong-nao là Moi, và của Champa là Loi, bị đẩy vào sống ở vùng núi rừng do sự đàn áp của người Cochin China.
Khi Ang Eng, cha của vị vua Kamboja hiện nay, chết thì Ang Chan II mới có 6 tuổi. Khi ông ta lớn lên, ông ta bất hoà với hai người em và khiến họ chạy sang Xiêm cầu viện: Ang Chan lo sợ bị lặt đổ nên chạy sang Ya-din-tain nhờ che chở.Tai-kun (Tả Quân), Tổng trấn hiện tại, mang 30.000 quân sang Kamboja giúp Ang Chan.
Khi quân Tai-kun gặp quân Xiêm khi tranh giành Calompé, họ nghị hoà và thống nhất để Kamboja tiếp tục thần phục Cochin China; và tỉnh giàu có Bantaibang thuộc về Xiêm, đường biên giới thống trị sẽ là cái hồ lớn (Biển Hồ). Người Kamboja bị áp bức mạnh mẽ bởi người Cochin China. Vua Kamboja không thể làm bất cứ điều gì mà không xin phép quan Tổng trấn ở Saigun.
SAIGUN
Thành trì Yadin-tain (Gia Định Thành) được xây bởi ông Olivia. Nó có hình 4 cạnh, mỗi cạnh dài nửa dặm. Nó có 8 cổng, với 2 cổng ở mỗi cạnh, được xây dựng với thành lũy bằng đất. Nó có một con hào và chướng ngại, và 2 con kênh ăn thông ra sông giúp giao thông và liên lạc. Gibson ước đoán dân số Yadin-tain, gồm cả Saigun và Bawghue (Bến Nghé?), là 60.000 dân với 1 phần 5 là người Hoa.
Nơi đây là nơi trú ngụ của thương nhân Trung Hoa, hàng hóa Trung Quốc luôn có để bán, và hàng hóa tập trung để xuất khẩu sang Trung Quốc. Nơi đây có nhiều kênh rạch nối liền với con sông chính, thuyền ghe lên xuống tấp nập, dỡ hàng hóa tới tận cửa nhà thương nhân. Nó cũng có một con đường thủy đi tới sông lớn Kamboja.
DONG-NAI
Dong-nai (Biên Hòa?) là cố đô của xứ này khi người Kamboja còn sở hữu nó. Chỗ đó là một nơi rộng rãi và có thương mại tốt, nhưng hiện nay nó là một nơi mục nát. Người Cochin China khi chinh phục xứ này đã dời thủ phủ về Saigun, nơi thuận lợi giao thương hơn, và gọi thành phố mới và tỉnh này là Ya-din-tain.
CANAL OF HATIAN
Năm 1820, một con kênh được đào từ Que-douc (Châu Đốc), bên bờ tây sông lớn (Cửu Long), tới Athien (Hà Tiên), bên bờ vịnh Xiêm. 20.000 người Cochin China và 10.000 người Kamboja được thuê làm việc: kênh này sâu độ 3 sải. Công nhân được trả 6 quan tiền một tháng, và triều đình nhà Nguyễn tốn 400.000 quan cho tiền lương. Thế nhưng không có sự cung cấp nước uống cho công nhân nên 10.000 người đã chết vì đói khát, lao lực và bệnh dịch. Mục tiêu của việc đào con kênh này là tạo sự gia thông dễ dàng từ xứ Kamboja (tức Ya-din-tain) tới Xiêm, thuyền chiến có thể chở lính đi thẳng thay vì phải đi vòng qua Cape of Kamboja (Mũi Cà Mau).
Voi
Trước kia, mọi tù trưởng người Kamboja nuôi và bán voi cho người Cochin China và Xiêm. Một con voi tốt giá 50-100 quan. Voi rất dồi dào ở vùng thượng du, ở Pontai và Lào, nhưng nay chính quyền Cochin China chỉ cho bán 1 con voi giá 10 quan tiền, khiến người ta ngừng nuôi voi.
MALAYS
Có một số người Malay định cư ở phía Đông vịnh Xiêm, họ có nguồn gốc từ Tringano và Patani.
CHRISTIANS
Gibson được cha sứ Francis, một nhà truyền đạo Neapolitan ở Saigun, cho biết là ở một nơi gọi là Cheguam, nằm giữ thành Ya-din-tain và đô thị Saigun, chỗ mà cha sứ ở, có 120 người Công giáo. Ở tỉnh Ya-din-tain có khoảng 25.000 người Công giáo, và 100 nhà thờ. Các mục sư gồm 3 người châu Âu và 10 người bản xứ. Lúc cố vương Gia Long và Giám mục Adran (Bá Đa Lộc) còn sống, đạo Công giáo rất được tôn trọng. Hiện nay, đạo Công giáo vẫn được công khai tôn thờ ở phần miền nam của đất nước, nơi người theo đạo được bảo vệ và khích lệ bởi Tổng trấn Tai-kun. Người theo đạo Công giáo, tuy thế, rất nghèo và khốn khổ nên ít có thời gian làm lễ. Ở một nơi gọi là Lang (Lăng Cha Cả), là nơi chôn Giám mục Adran. 50 gia đình được Gia Long sai giữ lăng và miễn các loại thuế, dịch.
BUDDHIST RELIGION
Ở giữ Yadin-tain và Saigun có một ngôi chùa Phật, có bức tượng Phật cao 7 feet, và 3 tượng cao 4 feet, với tư thế ngồi. Gibson có thảo luận với những tu sĩ Phật giáo ở chùa đó nhưng bọn họ có vẻ rất dốt nát (sic); họ không biết chút gì về sự truyền bá tôn giáo của họ ở Cochin China, chỉ biết nó đến từ phương Tây. Phía sau chùa là một công trình khác, có tên của các vị tu sĩ quá cố, được giữ rất trang trọng.