Nhóm ngôn ngữ Khương, trước đây gọi là Nhóm ngôn ngữ Dzorgai, là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng. Những ngôn ngữ này hiện diện ở miền đông nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân Nam). Đa phần ngôn ngữ Khương có mặt ở Ngawa, Garzê, Nhã An, và Lương Sơn ở Tứ Xuyên.
Người nói ngôn ngữ Khương được chính quyền Trung Quốc xem là người Khương, người Tạng, người Pumi, người Naxi (Nạp Tây) hay người Mông Cổ.
Tiếng Tangut của nước Tây Hạ được một bộ phận học giả coi một ngôn ngữ Khương, trong đó có Matisoff (2004).
Lamo, Larong, và Drag-yab (ba ngôn ngữ gần gũi nhau nói ở Chamdo, đông Tây Tạng) có thể thuộc nhóm Khương.
Phân loại
Tôn Hoằng Khai (1983)
Tôn Hoằng Khai (1983) đề xuất hai nhánh, bắc và nam:
Bắc: Khương Bắc (Ma Oa), Phổ Mễ (Prinmi), Mộc Nhã (Minyag), Tangut (đã biến mất; 1036–1502)
Nam: Khương Nam (Đào Bình).
Tôn Hoằng Khai liệt kê những ngôn ngữ Khương khác như sau:
Nhĩ Tô (Tosu), Húc Mễ, Namuzi (Namuyi)
Quý Quỳnh (2–3 phương ngôn với mức độ thông hiểu nhau thấp)
*Trát Bá, Khước Vực.
Matisoff (2004)
Matisoff (2004) cũng cho rằng hiện tượng "làm sáng" là một trong những đặc điểm đổi mới tiêu biển của ngôn ngữ Nhĩ Tô nguyên thủy.
Thurgood và La Polla (2003)
Thurgood và La Polla (2003) cho rằng mối quan hệ giữa cụm Khương, Prinmi, Mộc Nhã là có căn cứ, nhưng trái với Tôn Hoằng Khai, họ loại tiếng Tangut ra. Matisoff (2004) tin rằng Tangut có mối quan hệ rõ ràng với nhóm Khương. Tiếng Bạch Mã hiện chưa phân loại dứt khoát có thể là một ngôn ngữ Khương hay một ngôn ngữ Tạng với lớp nền ngôn ngữ Khương.
Tôn Hoằng Khai (2001)
Tôn Hoằng Khai (2001) đưa ra phân loại mới cho nhóm Khương như sau.
Nhóm Khương
Bắc
Tangut 西夏
*Khương
Khương 羌 (Khương Bắc, Khương Nam)
Prinmi 普米
***Minyak 木雅
Rgyalrong
rGyalrong 嘉绒
Ergong 尔龚
**Lavrung 拉乌戎
Nam
Nhĩ Tô 尔苏
Quý Quỳnh 贵琼
Húc Mễ 史兴
Namuyi 纳木依
Choyo 却隅
nDrapa 扎巴
Jacques & Michaud (2011)
Guillaume Jacques & Alexis Michaud (2011) đề xuất nhánh Nạp/Na–Khương, cùng với nhóm Lô Lô-Miến tạo nên Miến-Khương. Na–Khương gồm ba phân nhánh, gồm nhóm Nhĩ Tô, Na (hay Nạp Tây), và Khương [lõi]. Tương tự, David Bradley (2008) đề xuất một nhánh Tạng-Miến Đông bao gồm nhóm Lô Lô-Miến và Khương. Jacques & Michaud không phân loại tiếng Quý Quỳnh.
;Na–Khương
*Nhĩ Tô
Nhĩ Tô
Lizu
Đa Tục
*Na
Namuyi
Húc Mễ
*Cụm Na-Nạp Tây
Nạp Tây
Na (Mosuo)
Laze
*Khương
Khước Vực
Trát Bá (?)
Tangut
Phổ Mễ
Phổ Mễ Bắc
Phổ Mễ Nam
Mộc Nhã
**Mộc Nhã Bắc
Mộc Nhã Nam
Khương
**Khương Bắc
Khương Nam
Rgyalrong
*rGyalrong
**Situ
Japhug
Tshobdun
***Zbu
Lavrung
Thugsrjechenmo
Njorogs
*Horpa
**Rtau
****Stodsde
Chirkova (2012)
Chirkova (2012) nghi ngờ việc nhóm Khương là một nhóm ngôn ngữ cố kết, đề xuất rằng những ngôn ngữ liệt kê ở trên chỉ nằm trong cùng vùng ngôn ngữ. Chirkova cho bằng bốn ngôn ngữ sau thuộc bốn nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến:
Lizu
Húc Mễ
Namuzi
Phổ Mễ
Nguồn tham khảo
Thể loại:Ngôn ngữ tại Trung Quốc
Thể loại:Ngữ hệ Hán-Tạng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhóm ngôn ngữ Khương**, trước đây gọi là **Nhóm ngôn ngữ Dzorgai**, là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng. Những ngôn ngữ này hiện diện ở miền đông nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân
**Nhóm ngôn ngữ Gyalrong** (còn được gọi là _Jiarong_), là một nhánh của nhóm ngôn ngữ Khương của ngữ hệ Hán-Tạng, mặc dù Randy LaPolla (2003) cho rằng nó có thể là một phần
thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc ở Vân Nam, Trung Quốc [[Tập tin:Ethnolinguistic map of Burma 1972 en.svg|thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc ở Myanmar ]] **Nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến** (trong tiếng Anh gọi là _Lolo-Burmese_
**Nhóm ngôn ngữ Thái (Tai)** (còn gọi là **Nhóm ngôn ngữ Tráng-Thái**) là một Nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai. Nhóm ngôn ngữ này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Tráng, tiếng Bố
**Nhóm ngôn ngữ Lô Lô**, còn gọi là **Di** ở Trung Quốc, nhóm **Ngwi** (Bradley 1997) hay nhóm **Nisu** (Lama 2012), là một nhóm gồm hơn 50 ngôn ngữ, hiện diện chủ yếu ở Vân
**Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur** hay **ngữ quần Tạng-Kanaur**, còn được gọi là **ngữ quần Bod**, **ngữ quần Bod-Himalaya**, **ngữ quần Tạng-Himalaya** (藏-喜马拉雅语群) và **ngữ quần Tạng-Miến Tây**, là một cấp phân loại trung gian được
**Tiếng Khương**, còn được gọi là **Rma** (尔玛) hoặc **Rme** bởi các người nói ngôn ngữ này, là một cụm ngôn ngữ Hán-Tạng của nhóm ngôn ngữ Khương nói bởi khoảng 140.000 người ở phía
**Nhóm ngôn ngữ Miến-Khương**, còn được gọi là **nhóm** **ngôn ngữ Tạng-Miến Đông**, là một nhóm chính trong ngữ tộc Tạng-Miến, nhóm chính còn lại là nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur. Nhóm ngôn ngữ này được
**Tiếng Nạp Mộc Y** () là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Nạp thuộc ngữ tộc Tạng-Miến được sử dụng bởi khoảng 10.000 người, chủ yếu tại phía Nam tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc (tại
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Tiếng Nùng** là một nhóm các ngôn ngữ thuộc nhánh Tai Trung tâm trong ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai. Các cư dân nói nhóm ngôn ngữ này được chính phủ Việt Nam phân
**Tiếng Tangut**, **tiếng Đảng Hạng** hay **tiếng Tây Hạ** là một ngôn ngữ Tạng-Miến thời xưa, một thời nói ở Tây Hạ, trong văn liệu Tây phương còn gọi là Tangut Empire (Đế quốc Tangut).
**Tiếng Tày Sa Pa** là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái, ngữ hệ Thái-Ka Đai được sử dụng ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Theo Pittayaporn (2009) và _Glottolog_, nó là họ
**Tiếng Mantsi** (còn được gọi là tiếng **Lô Lô**, tiếng **Lô Lô** **Hoa** hoặc tiếng **Lô Lô Đỏ**), là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến nói bởi người Di ở Trung Quốc
**Người Khương** (, Hán-Việt: Khương tộc) là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc tại Trung Quốc, được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức
**Tiếng Bố Y (**tên tự gọi: **Haausqyaix**, , hay ) là ngôn ngữ của dân tộc Bố Y, được sử dụng chủ yếu tại các huyện Ninh Nam, Quan Lĩnh, Trấn Ninh, châu tự trị
**Tiếng Pa Dí** [pa31 zi31] là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái được nói tại khu vực biên giới Việt-Trung. Có khoảng 300 người nói tiếng Pa Di ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào
**Tiếng Thu Lao** hay tiếng Tráng Đại (Dai Zhuang) là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái được nói ở châu tự trị Văn Sơn, Vân Nam, Trung Quốc, ở các huyện, thành phố Diêm
**Tiếng Ladakh**, còn gọi là **tiếng** **Bhoti** hoặc **tiếng** **Bodhi**, là một ngôn ngữ Tạng được nói ở bang Ladakh của Ấn Độ. Đây là ngôn ngữ chiếm ưu thế tại huyện theo đạo Phật
**Tiếng Nạp Tây** hay **tiếng Naxi** (tên tự gọi ), cũng gọi là _Nakhi, Nasi, Lomi, Moso, Mo-su, Ma Thoa_, là một ngôn ngữ Hán-Tạng được nói bởi hơn 310.000 người sinh sống tại hoặc
**Người Phổ Mễ** (, Hán Việt: Phổ Mễ tộc, tên tự gọi: , cũng gọi là **Pumi**, **Primi**) là một nhóm dân tộc được công nhận chính thức tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Khương** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, gồm Trung Quốc (chữ Hán: 姜, Bính âm: Jiang), Triều Tiên (Hangul: 강, phiên âm latinh Kang hoặc Gang) và Việt Nam. Tại
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Tiếng Bạch** (chữ Latinh: , chữ Hán-Bạch: 白語子, âm Hán-Việt: Bạch ngữ tử; ) là ngôn ngữ của người Bạch, với phần đông người nói tụ ở Vân Nam, Trung Quốc. Ngôn ngữ này có
**Người Gyalrong** hay còn gọi là **người Kim Xuyên** ( ) sống ở châu tự trị dân tộc Tạng-Khương Ngawa và châu tự trị dân tộc Tạng Garzê tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Từ
**Người Jinghpaw** hay **người Cảnh Pha** (; ; tên tự gọi: Jingpo, Jinghpaw, Tsaiva, Lechi) là một nhóm sắc tộc chủ yếu sinh sống tại miền bắc Myanmar (bang Kachin). Họ cũng tạo thành một
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
phải|nhỏ|Trang phục thông thường của người Cáp Nê tại [[Trung Quốc. Ảnh chụp gần Nguyên Dương, tỉnh Vân Nam. ]] **Người Hà Nhì** (tên tự gọi: _Haqniq_, tiếng Hán: 哈尼族 _Hāní zú, Cáp Nê tộc_),
**Tiếng Zhang-zhung** () hay **tiếng Tượng Hùng** () là một ngôn ngữ Hán-Tạng đã biến mất, từng được nói tại nơi ngày nay là mạn tây khu vực Tây Tạng. Người ta biết đến nó
**Người Lô Lô** (theo cách gọi ở Việt Nam và Thái Lan) hay **người Di** theo cách gọi ở Trung Quốc (), **Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn**,
nhỏ|Điệu, một chuỗi lặp đi lặp lại, thể hiện trong khiêu vũ: một tranh động miêu tả [[Vanxơ|waltz.]] **Điệu** (từ gốc tiếng Hy Lạp ῥυθμός, rhythmos, "là bất kì chuyển động thường xuyên mang tính
**Người Bố Y** (; ; Tiếng Bố Y: ; Tiếng Tráng: ), còn gọi là **Chủng Chá**, **Trọng Gia**, **Tu Dí**, **Tu Dìn** hay **Pu Nà**, là một dân tộc cư trú ở vùng nam
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
phải|Trang phục dân tộc Phù Lá, trưng bày tại [[Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam]] **Người Phù Lá** () còn có tên gọi khác là **Xá Phó**, **Bồ Khô Pạ**, **Mú Dí Pạ**, **Phổ**,
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
Bò Tơ Út Khương – Quán bò tơ nổi bật tại Tây Ninh, khai trương từ tháng 10/2019, gây ấn tượng mạnh với thực khách nhờ chất lượng món ăn và không gian rộng thoáng.Bò
**Kang Seul-gi** (Hangul: 강슬기; Hanja: 康澀琪, Hán-Việt: Khương Sáp Kỳ; sinh ngày 10 tháng 2 năm 1994), thường được biết đến với nghệ danh **Seulgi**, là một nữ ca sĩ kiêm vũ công người Hàn
**Ngũ Phụng Tề Phi** (_五鳳齊飛, Năm con chim phượng hoàng cùng bay_) là một danh xưng dùng để chỉ 5 người đồng hương cùng đỗ đại khoa trong cùng một khoa thi. Ở Việt Nam,
**Khương Hoàn Mỹ** (sinh ngày 15 tháng 2 năm 1997), thường được biết đến với nghệ danh **Orange**, là một nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc người Việt Nam. Cô bắt
**Người Pa Dí** là một nhóm nhỏ của dân tộc Tày. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Kra-Dai). ## Dân số và địa bàn cư trú Tại Trung Quốc, họ
Dân tộc **La Chí**, còn gọi là **Cù Tê**, **La Quả**, là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. ## Nhóm ngôn ngữ Tiếng La Chí thuộc hệ ngôn
thumb|Một ngôi làng Nạp Tây gần Lệ Giang **Người Nạp Tây** (Giản thể: 纳西族, Phồn thể: 納西族, Bính âm: Nàxī zú, Hán Việt: Nạp Tây tộc) hay **người Naxi** hoặc **người Nakhi** (theo tên tự
**Nghệ** hay **nghệ nhà**, **nghệ ta**, **khương hoàng** (danh pháp hai phần: **_Curcuma longa_**) là cây thân thảo lâu năm thuộc họ Gừng, (Zingiberaceae), có củ (thân rễ) dưới mặt đất. Nó có nguồn gốc
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Người Thái** với tên tự gọi là _Tay/Tày/Thay/Thày_ () tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: **Tay Đón** (Thái Trắng),
**Heavy metal** (hay viết tắt là **metal**) là thể loại nhạc rock phát triển vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, chủ yếu ở hai thị trường Vương quốc Liên hiệp Anh
**Tứ Xuyên** () là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây
TINH DẦU XÔNG CẢM TRẦN MAOThành phần : Tinh dầu thiên nhiên: Bạc hà, khuynh diệp, húng lũi, tía tô, gừng, quế, sả, cam, chanh, tràm trà,...Bạc hà:Thành phần trong tinh dầu Bạc Hà là: