✨Người Khương

Người Khương

Người Khương (, Hán-Việt: Khương tộc) là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc tại Trung Quốc, được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận, với dân số khoảng 306.000 người (ước tính năm 2002), sinh sống chủ yếu tại miền tây tỉnh Tứ Xuyên, bao gồm miền đông châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá, địa cấp thị Miên Dương (các huyện Bắc Xuyên, Bình Vũ). Hiện nay, người Khương chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ của dân cư Trung Quốc, nhưng nói chung người ta tin rằng dân tộc này rất cổ đại, từng có thời đủ mạnh và đông đúc, với lịch sử có thể dò vết ít nhất là từ thời kỳ nhà Thương và các hậu duệ của họ được cho là tạo thành một bộ phận nhất định của người Tạng hiện đại, một bộ phận nhất định của người Hán hiện đại và nhiều sắc tộc thiểu số tại Miền Tây Trung Quốc.

Lịch sử

Sơ kỳ

Trong các thư tịch Trung Hoa cổ đại, các cụm từ như người Khương, Tây Khương, rợ Khương thường được sử dụng như là thuật ngữ chung để chỉ các sắc tộc không phải người Hoa Hạ tại miền tây Trung Quốc ngày nay.

Người Khương ngày nay là các cư dân miền núi. Một làng phòng thủ hay trại (寨), bao gồm 30 tới 100 hộ gia đình nói chung là đơn vị xã hội cơ bản phía trên hộ gia đình. Các cư dân của các làng phòng thủ hay cụm làng có quan hệ gần gũi trong đời sống xã hội. Trong các thung lũng nhỏ này, người dân gieo trồng trên các mảnh ruộng bồi tích hẹp dọc theo các con suối hay các địa hình miền núi, săn bắt động vật hoặc thu nhặt nấm ăn và các loại thảo vật (làm thức ăn hay thuốc trị bệnh) trong các cánh rừng cận kề, chăn thả bò Tây Tạng và ngựa trên các bãi cỏ đỉnh núi, đồi. Trong quá khứ, tranh giành bạo lực giữa các làng cũng hay xảy ra.

Từ quan điểm của ngôn ngữ học, mọi người Khương hiện đại đều nói một trong hai thứ tiếng của ngữ chi Khương, các thứ tiếng của ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tuy nhiên, các phương ngữ này là quá khác biệt đến mức giao tiếp giữa các nhóm Khương khác nhau thường sử dụng tiếng Trung làm ngôn ngữ giao tiếp trung gian. Do không có chữ viết riêng nên người Khương cũng sử dụng chữ Hán trong các giao dịch. Bắt đầu từ thập niên 1980, những người Khương có học thức đã bắt đầu xây dựng hệ thống chữ viết riêng (sử dụng bảng chữ cái Latinh) và soạn từ điển tiếng Khương, dựa trên phương ngữ Khúc Cốc (曲谷) chuẩn hóa. Từ năm 1994, có thêm nhiều giáo viên biết tiếng Khương và hệ thống chữ viết này đã được gửi tới các vùng làng quê để giảng dạy.

Tập quán

Xã hội Khương theo chế độ mẫu hệ thông thường chủ yếu có quan hệ một vợ-một chồng, mặc dù tập quan đa phu và các cuộc hôn nhân anh em con bác-con cô hay con bá-con cậu cũng được chấp nhận. Do phần lớn những người phụ nữ già hơn chồng của họ và điều phối các công việc nhà nông nên họ thường cũng đóng vai trò chủ gia đình và xã hội.

Tình yêu lãng mạn được coi là quan trọng và tự do tình dục thì thịnh hành. Người Khương coi hôn nhân là quan trọng. Trong quá khứ, các cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp xếp tổ chức, với sự chấp thuận của những người sẽ trở thành vợ chồng này. Điều bất thường là các cô dâu sống tại nhà cha mẹ họ trong một năm hay hơn thế sau lễ cưới. Trong quá khứ, con cái thường ra ở riêng sau lễ cưới, ngoại trừ người con trai cả. Tuy nhiên, thói quen này đã dần dần bị loại bỏ từ năm 1949, khi Trung Quốc trở thành một nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Người Khương cũng có hệ thống cấm kỵ cứng nhắc liên quan tới sinh và tử. Trước khi sinh đứa trẻ, người phụ nữ mang thai không được ra bờ sông hay bờ giếng, không được tới các lễ cưới hay đứng trong tháp canh.

Khi sinh, một pháp sư gọi là Đoan công (端公) được mời đến để giúp đỡ bà mẹ sinh con, và những người lạ mặt không được phép than khóc hay bước chân vào nhà. Điều này được ngăn ngừa bằng cách treo một chiếc néo đập lúa lên trên cổng trong một tuần nếu đứa trẻ sinh ra là con trai và một cái thúng tre nếu đứa trẻ sinh ra là con gái.

Trong vòng một tháng sau khi sinh con, sản phụ không được vào bếp. Nếu làm trái đi thì bị coi là hành động tội lỗi đối với các vị thần bếp và nhà. Sản phụ này cũng không được ra khỏi nhà và gặp bất kỳ người lạ nào trong vòng 40 ngày sau khi sinh con. Người ta tin rằng các rủi ro ma quỷ hay bệnh tật sẽ theo về nhà và làm hại người mẹ. Một lễ cúng tế gia súc được thực hiện tại bàn thờ gia đình, nơi đứa trẻ được đặt tên.

Những đứa trẻ chết lưu hay chết non không được người Khương coi là con người. Thay vì thế, những đứa trẻ bất hạnh này bị coi là ma quỷ làm cho người phụ nữ mang thai để gây tai họa cho gia đình. Thi thể chúng được ném vào trong các hốc trong lòng đất và phủ đất lên.

Văn hóa và lối sống

Do sự đa dạng sắc tộc của mình nên văn hóa Khương có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác và chịu ảnh hưởng từ các nền văn hóa này. Nói chung, những người sống gần người Tạng thì chịu ảnh hưởng của văn hóa Tạng, trong khi phần lớn người Khương chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ phía người Hán, với các liên kết chặt chẽ với lịch sử sắc tộc của dân tộc này.

Cả đàn ông và đàn bà đều mặc áo choàng làm từ vải đay, bông hay lụa với áo vét bằng len không tay. Tuân theo các truyền thống lâu đời, tay và chân của họ được bó. Phụ nữ mặc quần áo có dây buộc với cổ áo trang trí, bao gồm các đồ trang trí màu bạc hình quả mận. Giày thêu nhọn mũi, thắt lưng thêu và khuyên tai, vòng cổ, trâm cài đầu và phù hiệu bằng bạc cũng phổ biến.

Kê, đại mạch cao nguyên, khoai tây, lúa mì và kiều mạch là các nguồn lương thực ổn định của người Khương. Việc tiêu dùng rượu vang và hút thuốc làm từ lá lan cũng phổ biến trong số những người Khương.

Người Khương sống trong các ngôi nhà xây cất bằng đá granit và gỗ, nói chung có 2-3 tầng. Tầng một dùng làm nơi nhốt gia súc và gia cầm, trong khi tầng hai làm nơi ngủ nghỉ và tầng ba là nơi lưu giữ thóc lúa. Nếu không có tầng ba thì lương thực được lưu giữ tại tầng một hay tầng hai.

Khéo tay trong việc xây dựng đường sá và cầu cống bằng tre nên người Khương có thể xây dựng chúng trên các vách núi đá và trên các con sông hay suối chảy nhanh. Chỉ sử dụng các cột trụ và các bản bằng gỗ, những cây cầu này có thể kéo dài tới 100 m. Những người Khương khác lại là các thợ nề giỏi việc đào giếng. Những khi mùa màng thất bát, họ thường đi nhiều nơi để đào giếng hay chạm trổ.

Thêu thùa được thực hiện tùy hứng mà không có các mẫu thiết kế. Các bài dân ca liên quan tới các chủ đề như rượu vang và núi đồi luôn được kèm theo là các điệu nhảy và âm nhạc từ các nhạc cụ truyền thống, như trống.

Tôn giáo, tín ngưỡng

Phần lớn người Khương theo tín ngưỡng đa thần, gọi là Ruism, một tín ngưỡng với niềm tin vào các viên đá trắng, được thờ phụng như là tượng trưng cho thần Mặt Trời sẽ đem lại điều may mắn cho các mặt của cuộc sống thường nhật của người Khương. Những người sống gần người Tạng thì theo Phật giáo Tây Tạng (Lạt ma giáo). Cũng có các nhóm nhỏ theo Hồi giáo và Đạo giáo.

Người Khương thờ phụng 5 vị đại thần, 12 vị tiểu thần, một số vị thần cây, và nhiều viên đá được thờ phụng trong vai trò đại diện cho các vị thần. Một vị thần đặc biệt được thờ phụng tại mỗi làng, được nói tới bằng tên gọi trong các bài thánh ca của các tu sĩ người Khương. Mubyasei hay Abba Chi là vị thần trên trời và được coi là vị thần tối cao. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để nói tới vị thần tổ tiên của đàn ông, Abba Sei. Tại một số nơi, Sơn vương, vị thần núi, lại được coi là vị thần tối cao. Người Khương cũng tuân theo nhiều thực tiễn của Đạo giáo.

Đối với một số người Khương, phần lớn viên đá trắng được đặt tại các góc của mái nhà hay trên các tháp chùa, như là biểu tượng may mắn của mặt trời. Tại mỗi làng đều có một tháp chùa bằng đá nằm tại rìa làng trên đỉnh đồi cận kề. Tháp chùa này thường cao trên 2 m và phần trên cùng nhất của nó được dát bằng một vòng tròn các viên đá trắng nhỏ. Các viên đá trắng lớn hơn cũng được đặt trên chóp nhọn.

Các tháp nhỏ đôi khi cũng được xây dựng trên mái nhà, với bình gốm sứ chứa ngũ cốc được đặt trong tháp. Trên đỉnh tháp, một viên đá trắng được đặt cùng sừng bò và cừu. Theo truyền thống, của nhà của người Khương quay mặt về phía nam và tháp nhỏ này được xây ở mặt bắc của mái nhà, thẳng hàng với của nhà. Mỗi buổi sáng, gia đình người Khương sẽ đốt hương trong tháp và khấu đầu trước tháp, cầu nguyện thần đá trắng che chở cho gia đình.

Tuy nhiên, với quá trình hiện đại hóa, việc thờ phụng thần đá trắng gần như không còn phổ biến như trước kia.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Khương** (, Hán-Việt: Khương tộc) là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc tại Trung Quốc, được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức
**Tiếng Khương**, còn được gọi là **Rma** (尔玛) hoặc **Rme** bởi các người nói ngôn ngữ này, là một cụm ngôn ngữ Hán-Tạng của nhóm ngôn ngữ Khương nói bởi khoảng 140.000 người ở phía
**Người Lô Lô** (theo cách gọi ở Việt Nam và Thái Lan) hay **người Di** theo cách gọi ở Trung Quốc (), **Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn**,
MÔ TẢ SẢN PHẨM ❤️ Quy cách: ➤Hộp 30 viên ❤️ Thành Phần: ➤Địa liền..........................................................................1000mg ➤Độc hoạt......................................................................... 200mg ➤Tang ký sinh.....................................................................200mg ➤Ngưu tất............................................................................100mg ➤Phòng phong.....................................................................100mg ➤Đương quy.........................................................................100mg ➤Thổ phục linh.....................................................................100mg ➤Hy thiêm.............................................................................100mg ➤Xuyên khung........................................................................50mg ➤Quế
**Người Gyalrong** hay còn gọi là **người Kim Xuyên** ( ) sống ở châu tự trị dân tộc Tạng-Khương Ngawa và châu tự trị dân tộc Tạng Garzê tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Từ
phải|nhỏ|Trang phục thông thường của người Cáp Nê tại [[Trung Quốc. Ảnh chụp gần Nguyên Dương, tỉnh Vân Nam. ]] **Người Hà Nhì** (tên tự gọi: _Haqniq_, tiếng Hán: 哈尼族 _Hāní zú, Cáp Nê tộc_),
**Người Jinghpaw** hay **người Cảnh Pha** (; ; tên tự gọi: Jingpo, Jinghpaw, Tsaiva, Lechi) là một nhóm sắc tộc chủ yếu sinh sống tại miền bắc Myanmar (bang Kachin). Họ cũng tạo thành một
thumb|Một ngôi làng Nạp Tây gần Lệ Giang **Người Nạp Tây** (Giản thể: 纳西族, Phồn thể: 納西族, Bính âm: Nàxī zú, Hán Việt: Nạp Tây tộc) hay **người Naxi** hoặc **người Nakhi** (theo tên tự
**Khương** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, gồm Trung Quốc (chữ Hán: 姜, Bính âm: Jiang), Triều Tiên (Hangul: 강, phiên âm latinh Kang hoặc Gang) và Việt Nam. Tại
**Khuông Việt** (匡越, 933-1011) trước tên là **Ngô Chân Lưu** (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ
**Khương Duy** (姜維, bính âm: Jiang Wei, 202–264), là một đại tướng của nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Nguyên là một quan nhỏ của Tào Ngụy, ông bất đắc
**Khương Tử Nha** (chữ Hán: 姜子牙, 1156 TCN - 1017 TCN), tính **Khương** (姜), thị **Lã** (呂), tên **Thượng** (尚), tự **Tử Nha** (子牙), lại được gọi là **Thượng Phụ** (尚父), là khai quốc công
**Khương Công Phụ** (, 731 - 805) tự **Đức Văn** () là một tể tướng dưới triều Đường Đức Tông, đỗ trạng nguyên năm 780. ## Tiểu sử Khương Công Phụ xuất thân từ hương
Chân dung Nguyễn An Khương **Nguyễn An Khương** hay **Nguyễn An Khang** (1860-1931); là dịch giả và là chí sĩ ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Ông là cha của nhà
**Khương Đại Vệ** (Hoa phồn thể: 姜大衛, Hoa giản thể: 姜大卫, bính âm: _Jiāng Dàwèi_, tiếng Anh: _David Chiang Dawei_) (sinh ngày 29 tháng 6 năm 1947) là một diễn viên của rất nhiều bộ
**Tuyên Khương** () là vợ vua Vệ Tuyên công thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. ## Được gả sang nước Vệ Theo Sử ký, Tuyên Khương là con gái của Tề Ly công,
**Khương Văn** (; tiếng Anh: Jiang Wen; 5 tháng 1 năm 1963) là một nhà làm phim của điện ảnh Trung Quốc. Bắt đầu sự nghiệp trong vai trò diễn viên, Khương Văn được biết
**Dịch Khuông** (; ; 24 tháng 3 năm 1838 – 28 tháng 1 năm 1917) là một Thân vương có sức ảnh hưởng lớn vào cuối thời nhà Thanh. Ông là người đầu tiên nhậm
**Mục Khương** (chữ Hán: 穆姜, ? - 564 TCN), là một nữ quý tộc thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, phu nhân của Lỗ Tuyên công và thân mẫu của Lỗ Thành công,
**Nhóm ngôn ngữ Khương**, trước đây gọi là **Nhóm ngôn ngữ Dzorgai**, là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng. Những ngôn ngữ này hiện diện ở miền đông nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân
**Khương Hữu Dụng** (1907-2005) là nhà thơ hiện đại Việt Nam. Cuộc đời làm thơ của ông trải dài hơn 70 năm, từ giữa thập niên thứ 3 đến cuối thập niên thứ 10 của
**Nguyễn Đức Khương** là một chuyên gia tài chính người Việt. Ông là người Việt đầu tiên được lọt vào top 10 (xếp ở vị trí thứ 7 ) chuyên gia kinh tế trẻ hàng
**Mường Khương** là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Lào Cai, Việt Nam. ## Địa lý thumb|
Bản đồ huyện Mường Khương Huyện Mường Khương nằm ở phía bắc tỉnh Lào Cai, có vị trí
**Tạ An Khương** là một xã thuộc tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Xã Tạ An Khương có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Tân Thuận *Phía tây giáp xã Đầm
**Vương Khuông** (chữ Hán: 王匡, ? – 25), người huyện Tân Thị, quận Giang Hạ, Kinh Châu , thủ lĩnh khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân. ## Khởi binh phản Tân Năm Thiên Phượng
**Huỳnh Quang Ngọc**, thường được biết đến với nghệ danh **Khương Ngọc** (sinh ngày 26 tháng 7 năm 1984), là một nam diễn viên, nhạc sĩ, ca sĩ, người dẫn chương trình kiêm nhà làm
**Khương Mễ** (1916 – 2004) là nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam, ông chủ yếu hoạt động ở dòng phim tài liệu. Khương Mễ là người chế tạo thành công máy in
**Quân phiệt Lương châu** là lực lượng quân phiệt cát cứ cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trong những lực lượng ly khai nhà Đông Hán sớm nhất, mở
**Khương Trinh Vũ** (giản thể: 姜贞羽, phồn thể: 姜貞羽, bính âm: _Jiāng Zhēnyǔ_), tên khai sinh là Lưu Nghiêu Hân (刘垚昕) sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996 tại Chiêu Thông, Vân Nam, là một
**Trần Thế Khương** (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1984, được biết đến với nghệ danh **Khương Dừa**) là đạo diễn, nhà sản xuất chương trình, YouTuber kiêm ca sĩ người Việt Nam. Không chỉ
**Khương Phúc Đường** (; sinh tháng 10 năm 1941) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), nguyên Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu Thẩm Dương từ năm 1995 tới
**Khương Hữu Điểu** (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1931) là kỹ sư, chuyên viên, công chức và chính khách người Việt Nam, cựu Thứ trưởng Bộ Thương mại và Công Kỹ nghệ, Thứ trưởng
**Khương Hữu Long** (1890 – 23 tháng 2 năm 1983) là bác sĩ và chính khách người Việt Nam, cựu Tổng trưởng Bộ Y tế và Xã hội Cộng hòa tự trị Nam Kỳ dưới
**Khương Dị Khang** (sinh tháng 1 năm 1953) là chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông đảm nhiệm chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Sơn Đông gần mười năm từ năm 2008
**Khương Tương** (Hán tự: 姜瓖; ? – 1649) là vị tướng thời Minh mạt Thanh sơ, quê quán Du Lâm tỉnh Thiểm Tây. ## Tiểu sử Theo _Sóc Châu chí_, nhà họ Khương đã trải
**Khương Quỳ** (chữ Hán: 姜夔, khoảng 1155-khoảng 1221), tự: **Nghiêu Chương** (堯章), hiệu: **Bạch Thạch đạo nhân** (白石道人); là nhà thơ, nhà làm từ thời Nam Tống trong lịch sử văn học Trung Quốc. ##
**Hoàng Khương** tên thật là Nguyễn Văn Khương (sinh 1975-) tại Khánh Hòa là một nhà báo Việt Nam. Ông được biết đến vì có những bài phóng sự chuyên đề trên báo Tuổi Trẻ.
**Khương Hữu Bá** (1930 – 21 tháng 12 năm 2015) là cựu sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng hòa cấp bậc Đại tá. ## Binh nghiệp Khương Hữu Bá sinh năm 1930 tại Vĩnh
**Khương Huy** (tiếng Trung giản thể: 姜辉, bính âm Hán ngữ: _Jiāng Huī_, sinh tháng 11 năm 1969, người Hán) là nhà triết học, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông
**Khương Tín Trị** (tiếng Trung giản thể: 姜信治, bính âm Hán ngữ: _Jiāng Xìnzhì_, sinh tháng 2 năm 1958, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là
**Nguyễn Tri Khương** (1890-1962) là một nghệ sĩ và là soạn giả cải lương danh tiếng tại miền Nam Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là vở cải
**Khương Hoằng Lập** () là một vị tướng của Triều đại Triều Tiên. Theo yêu cầu từ phía nhà Minh, Quang Hải Quân ra lệnh cho Khương Hoằng Lập chỉ huy 10 nghìn quân sang
**Trần Đình Khương** (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho Becamex Bình Dương và
**Khương Trung Hoa** (; mất ngày 2 tháng 9 năm 2014) là một chuẩn đô đốc Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN), từng là trưởng phòng trang bị của Hạm đội
thumb|page=36|Minh họa Khương Nguyên trong _[[Liệt nữ truyện_.]] **Khương Nguyên** (chữ Hán: 姜原) là một nhân vật nữ trong truyền thuyết Trung Quốc. Tương truyền bà là con gái Hữu Thai thị và là chính
** H.H. Đệ Tam Thế Đa Kiệt Khương Phật ** (Anh ngữ: H.H. Dorje Chang Buddha III, Tiếng Hoa: H.H.第三世多杰羌佛, Tiếng Nhật: H.H.ドルジェチャン仏第三世, sinh năm 1955.) Phật hiệu đầy đủ là **Đỉnh Thánh Như Lai
**Phụ Khuông** (; ? - ?), tự **Nguyên Bật** (元弼), là tướng lĩnh nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Phụ Khuông quê ở quận Tương Dương hoặc
Khương Du **Khương Du** (tiếng Trung:姜瑜, Bính âm: Jiāng Yú) (sinh năm 1964), từng là người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. ## Tiểu sử Bà sinh ra tại
**Đặng Chí** (), cũng gọi là **Đặng Chí Khương** (鄧至羌) hay **Bạch Thủy Khương** (白水羌) là một chính quyền do người Khương thành lập và tồn tại vào những năm cuối của thời Ngũ Hồ
**Đoàn Duy Khương** (sinh năm 1960) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, nguyên Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, nguyên