✨Ngũ Phụng Tề Phi

Ngũ Phụng Tề Phi

Ngũ Phụng Tề Phi (五鳳齊飛, Năm con chim phượng hoàng cùng bay) là một danh xưng dùng để chỉ 5 người đồng hương cùng đỗ đại khoa trong cùng một khoa thi. Ở Việt Nam, danh xưng này được nhiều người biết đến nhất khi dùng để chỉ 5 danh sĩ người tỉnh Quảng Nam cùng đỗ đại khoa vào năm 1898.

Nguồn gốc danh xưng

Trung Quốc

Học giả Đào Duy Anh là người đầu tiên đề cập đến danh hiệu này một cách vắn tắt:

Theo nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng thì:

Nhà nghiên cứu Trương Duy Hy nhắc một điển tích khác khi dẫn vào thời nhà Thanh, nhân một khoa thi Đình, có 5 vị đại khoa là người cùng làng, và cùng đỗ Tiến sĩ và được vua ban cho bốn chữ "Ngũ Phụng Tề Phi".

Việt Nam

Nhà nghiên cứu Nguyễn Q.Thắng ghi lại:

Một lập luận khác của ông Trương Duy Hy là danh hiệu "Ngũ phụng tề phi do Tổng đốc Nam-Ngãi Đào Tấn và Đốc học Quảng Nam Trần Đình Phong lấy từ tích xưa đặt cho 5 vị đại khoa nói trên, đồng thời tặng cho bức trướng có 4 chữ Ngũ phụng tề phi, có thêm hình năm con chim phụng đặt tại dinh Tổng đốc ở Điện Bàn.

Hành trạng Ngũ Phụng

Theo văn bia tiến sĩ Mậu Tuất 1898 dựng trong khuôn viên di tích Văn Thánh Huế, thi khoa thì này, ngoài Đào Nguyên Phổ đỗ đầu với danh Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, 7 vị Tiến sĩ còn lại đều đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Ngoài ra có 9 vị đỗ Phó bảng được yết danh nhưng không được khắc vào bia đá. Dưới đây là tóm tắt hành trạng vị đại khoa Quảng Nam theo thứ tự trên văn bia như sau:

Phạm Liệu

Tự là Sư Giám, hiệu là Tăng Phố. Sinh năm 1873, mất năm 1937, quê xã Trừng Giang, tổng Đa Hòa thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Hòa Giang, xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Đỗ Cử nhân năm 1894. Đỗ đầu trong nhóm Đệ tam giáp lúc mới 26 tuổi. Sau khi đỗ, ông được lưu lại Huế học tiếng Pháp tại Tứ Dịch quán. Năm 1901, được bổ làm tri huyện Đông Sơn rồi tri phủ Nga Sơn ở Thanh Hóa. Năm 1905, làm chủ sự bộ Hình rồi chủ sự Quốc sử quán ở kinh đô. Năm 1908, được bổ làm tri huyện Phù Cát (Bình Định). Năm 1912, làm viên ngoại phụ chánh Cơ mật viện, hàm Quang lộc tự thiếu khanh. Khoa thi năm Quý Sửu (1913), làm quan duyệt quyển cùng với Nguyễn Thiện Hành - biện lý bộ Học. Hai năm sau, được thăng hàm Hồng lô tự khanh, làm phó chủ khảo trường thi Hương tại Nghệ An. Trải qua nhiều chức trọng quyền cao nơi triều chính, như tham tri bộ Công và tham tri bộ Lại, đến năm 1929 còn được bổ làm thượng thư bộ Binh. Đến năm 1933, vua Bảo Đại cải tổ nội các, bãi nhiệm cùng lúc 5 thượng thư, trong đó có cả Phạm Liệu. Ông về hưu tại quê nhà và mất ngày 21 tháng 11 năm 1937.

Một trong những người con trai là nhà thơ Phạm Hầu, từng được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong tập Thi nhân Việt Nam rằng: "Ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi".

Phan Quang

Danh sĩ, đại thần Phan Quang (1873-1939) cuối triều Nguyễn, tự Quế Nam, quê ở xã Phước Sơn, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Tổ tiên ông vốn gốc người tỉnh Nghệ An, sau vào lập nghiệp ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

ông là cháu nội của cử nhân Phan Văn Thuật, một danh thần triều Nguyễn nổi tiếng trong lĩnh vực pháp luật; xuất sắc trong công tác xã hội, đến lị sở nào cũng được nhân dân cảm ân đức. (Năm 1865 đang lúc giữ chức Biện lý bộ Hình thì ở Quảng Nam nhân dân bị nạn đói, ông Phan Văn Thuật  tâu xin vua Tự Đức phát hơn 30.000 phương gạo cứu giúp dân chúng Nhờ thế dân địa phương thoát được cảnh chết đói. Nhân dân tỉnh nhà rất cảm động trước ân đức của ông.) Xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, Phan Quang có 7 anh chị em ruột thì 4 anh em trai đều là danh sĩ: anh là tú tài Phan Xáng, em là tú tài Phan Ấm và cử nhân Phan Vĩnh.

Thuở nhỏ, ông rất thông minh, cùng với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến vả Phan Chu Trinh là những học sinh xuất sắc của trường Đốc Quảng Nam. Năm Giáp Ngọ, trong kỳ thi Hương tại Thừa Thiên ông đỗ cử nhân thứ 3; cụ Hà Dình Nguyễn Thuật lúc bấy giờ ₫ã tặng ông câu ₫ối sau:

Thi lễ danh gia quế lãnh hương truyền khoa phổ cựu,

Cầm thư tiểu trụ hà đình phong tỗnh tiệp âm lai.

tạm dịch:

Thi, lễ danh gia đỉnh Quế hương truyền đậu ₫ạt từ trước;

Đàn, Thơ tạm Hà ₫ình tin mừng thi đậu ₫ưa tới nơi.

Năm Mậu Tuất (1898), niên hiệu Thành Thái thứ 10, ông đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ. Đặc biệt trong khoa thi này, tỉnh Quảng Nam có năm người cùng đỗ Tiến sĩ và Phó bảng, được vua Thành Thái ban tặng tấm biển “Ngũ phụng tề phi” (năm con phụng cùng bay), gồm ba tiến sĩ: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn và hai Phó bảng: Dương Hiển Tiến, Ngô Chuân.

Ông làm quan nhiều nơi ở miền Trung. Năm 1901, ông bắt đầu làm tri huyện Lệ Thủy, rồi Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Chính tại mảnh đất cằn cỗi này, tiến sĩ Phan Quang đã thế hiện sĩ khí của một con dân đất Quảng Nam. Dù là một vị quan trẻ, ông đã mạnh dạn phản đối việc tăng thuế tại địa phương. Ông thấu hiểu dân tình khốn khổ, thương cho những người dân nghèo sống đa số trong những làng cát, phải lao động lam lũ biến sỏi đá thành sắn gạo, không đủ tiền nộp thuế. Vì những xung đột này với quan chức chính quyền Pháp, năm 1905, ông bị triệu hồi (cách chức). Đúng như người xưa nói, “Quảng Bình là đất Ô châu, ai đi đến đó quẩy bầu về không”. Có lẽ hành động khẳng khái của tiến sĩ Phan Quang đã góp phần khởi dậy phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ năm 1908 hay còn gọi là Trung Kỳ dân biến.  Mãi đến năm 1910, mặt dù bị giáng chức một bật, ông lại được triều đình cử đi làm giáo thọ Tuy An (Phú Yên). (Theo quan chế triều Nguyễn, tri huyện mang hàm thất phẩm, trong khi giáo thọ hàm bát phẩm.) Ông lần lượt thăng lĩnh Án sát Bình Định, Thị Lang, Tham tri bộ Hình. Năm 1930 ông được phong hàm Lễ Bộ Thượng thư trước khi về hưu.

Sau khi về hưu, ông ₫ã vận động triều ₫ình để lập lên trường tiểu học cho nhân dân trong huyện. Trường tiếu học Quế Sơn ra ₫ời năm 1937, là một trong những trường học hiếm hoi ở miền Trung lúc bấy giờ. Tự hào về ngôi trường này, tiến sĩ Phan Quang, đã có câu đối đắp ở cổng trường:

Nền Tây tự, cuộc Tây viên, bức vẽ thợ trời thêm cảnh tượng

Non Phước Sơn, nền Phước Đức, tiếng vang sấm dậy đất Nam bang

Đối với người dân ₫ịa phương, tên tuổi ông còn gắn liền với sự ra ₫ời của một cái chợ ở huyện Phước Sơn, gọi là chợ Đàng. Ông ₫ã hiến đất cho làng để lập chợ làm nơi buôn bán hai bên đường.

Nam 1939, ông mất tại quê nhà, thọ 67 tuổi. Người bạn cũ cụ Lương Thúc Kỳ ₫ã khóc ông với câu ₫ối sau:

Biên tịch cựu giao, hà thượng song ngư vô nhất tự

Bể hồi vãn sự, vân biên ngũ phụng dĩ tề phi.

(Xa cách bạn xưa, tin cá mấy lời đều vắng cả/

Nhớ về chuyện cũ, vén mây năm phụng đã bay rồi)

Tác phẩm của ông, do hai cuộc chiến tranh tàn phá quê hương, nên không gìn giữ được. Ông chỉ còn để lại một ít bài thơ còn truyền miệng trong dân gian. Thơ ông bình dị, nhẹ nhàng, như tiếng nói mộc mạc thường ngày. Như bài sau:

Thuyền ai một lá nhẹ như phao,

Đưa khách vừa ra rước khách vào.

Giữa bể phong tình buồm phơi phới,

Đầu nguồn ân ái sóng lao xao.

Lái nương ngọn gió mòn tay ngọc,

Chèo rán cơn mưa lợt má đào.

Tây tử đến khi về Phạm Lãi,

Năm hồ rửa sạch kiếp lao đao.

Phan Quang là vị quan thanh liêm, chánh trực biết lo cho dân. Cho đến nay dân địa phương vẫn ưu ái gọi ông là cụ thượng Phước Sơn. Con cháu ông sau này có những người thành ₫ạt như giáo sư Phan Khoang (1906-1971), nhà văn Phan Du (1915-1983), nhà báo Phan Hựu (bút danh Phan Thứ Khánh), Bộ trưởng Võ Đông Giang (còn gọi Phan Bá - cháu ông).

Phạm Tuấn

Tự là Hỷ Thần, hiệu là Văn Luân. Sinh năm 1852, mất năm 1917, quê xã Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Nguyên tên ông là Phạm Tấn, sau đổi thành Phạm Trọng Tuấn, rồi Phạm Tuấn. Đỗ Cử nhân năm 1879, được bổ làm bang tá phủ Điện Bàn, rồi được bổ làm huấn đạo Quế Sơn quyền nhiếp tri huyện Hà Đông (Tam Kỳ), đến năm 1898 thì làm giáo thụ phủ Thăng Bình ở tỉnh nhà. Năm 1898, ông thi Đình và đỗ thứ 5 trong nhóm Đệ tam giáp lúc đã 47 tuổi. Năm 1899, ông được bổ làm thừa biện bộ Lễ. Năm 1902, làm thị giảng học sĩ. Năm 1908, làm đốc học Hà Tĩnh, hàm Quang lộc tự thiếu khanh. Năm 1913, về hưu, được thăng hàm Hồng lô tự khanh. Năm 1917, ông qua đời tại quê nhà.

Ngô Chuân

Còn gọi là Ngô Truân, Ngô Trân hay Ngô Lý. Sinh năm 1873, mất năm 1899, quê xã Mông Lãnh, tổng Phú Xuân, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Do gia cảnh bần hàn, cha lại mất sớm, nên phải cùng mẹ qua ngụ cư làng Cẩm Sa, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay thuộc xã Điện Nam, huyện Điện Bàn). Đỗ Cử nhân năm 1894. Năm 1898, đỗ đầu trong nhóm Phó bảng lúc mới 26 tuổi. Sau đó ông được bổ làm tri huyện Thạch Hà ở Hà Tĩnh, nhưng chưa kịp nhận nhiệm sở thì ông lâm trọng bệnh và qua đời năm 1899 khi mới 27 tuổi.

Dương Hiển Tiến

Sinh năm 1866, mất năm 1907, người xã Cẩm Lậu, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc xã Điện Phong, thị xã Điện Bàn). Đỗ Cử nhân năm 1891, năm 1898 đỗ thứ 3 trong nhóm Phó bảng. Không thấy ghi chép gì hành trạng làm quan của ông. Năm 1907, ông lâm bệnh thương hàn và mất ở quê nhà.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngũ Phụng Tề Phi** (_五鳳齊飛, Năm con chim phượng hoàng cùng bay_) là một danh xưng dùng để chỉ 5 người đồng hương cùng đỗ đại khoa trong cùng một khoa thi. Ở Việt Nam,
**Tề phi Lý thị** (chữ Hán: 齊妃李氏; 1676 - 24 tháng 4, năm 1737), là một phi tần của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế. ## Tiểu sử ### Ung vương Trắc phi Tề
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
**Phùng Tiểu Liên** (chữ Hán: 馮小憐, không rõ năm sinh năm mất), còn gọi **Bắc Tề Phùng Thục phi** (北齊馮淑妃), là [Tả Hoàng hậu; 左皇后], tức Hoàng hậu không chính thống của Bắc Tề Hậu
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Tuyên phi Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 宣妃博爾濟吉特氏; ? - 1736), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Bát
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Phùng Xuân Nhạ** (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1963) là một giáo sư, tiến sĩ ngành Kinh tế, Ông cũng từng là Giảng viên, Phó Trưởng phòng Hành chính – Tuyên huấn – Đối
**Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Phế hậu** (chữ Hán: 博爾濟吉特废后), còn gọi **Thanh Thế Tổ Phế hậu** (清世祖废后) hoặc **Phế hậu Tĩnh phi** (废后静妃), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Thế
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Mục Nhĩ Cáp Tề** (1561 - 1620), Ái Tân Giác La, là con trai thứ hai của Thanh Hiển Tổ Tháp Khắc Thế, em trai của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Ông là
**Cựu Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 旧五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Tiết Cư Chính thời Bắc Tống viết
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
nhỏ|phải|Minh họa về [[Quái điểu Roc (Rukh/رخ) của vùng Trung Đông, chúng có thể nguyên tác từ những con chim voi khổng lồ từng sinh sống trên trái đất]] nhỏ|phải|Một chú chim nho nhỏ nhỏ|Chi
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Phùng Bạt** () (?-430), tên tự **Văn Khởi** (文起), biệt danh **Khất Trực Phạt** (乞直伐), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Văn Thành Đế** ((北)燕文成帝), là một hoàng đế của nước Bắc Yên thời
**Ngũ Hồ Thập lục quốc** (), gọi tắt là **Thập lục quốc**, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận
nhỏ|Historical Records of the Five Dynasties in Wuyi Museum **Tân Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 新五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ
**Dung phi Hòa Trác thị** (chữ Hán: 容妃和卓氏; 11 tháng 10, năm 1734 - 24 tháng 5, năm 1788), hoặc **Hoắc Trác thị** (霍卓氏), người Duy Ngô Nhĩ, nổi tiếng là phi tần người Hồi
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Chương Ý Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 章懿李皇后; 987 - 1032), nhưng rất hay được gọi là **Lý Thần phi** (李宸妃), nguyên là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng. Về sau, do
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Nam Tề Cao Đế** (chữ Hán: 南齊高帝; 427–482), tên húy là **Tiêu Đạo Thành** (), tên tự **Thiệu Bá** (紹伯), tiểu húy **Đấu Tương** (鬥將), là hoàng đế sáng lập nên triều đại Nam Tề
**Nhu Huy Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 柔徽皇太后; 1444 - 1489), hay **Thánh Tông Phùng hoàng hậu** (聖宗馮皇后), là phi tần của Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ năm của vương triều Hậu Lê nước
**Định phi Vạn Lưu Ha thị** (chữ Hán: 定妃万琉哈氏; 1661 - 24 tháng 5, năm 1757), cũng gọi Ngõa Lưu Cáp thị (瓦琉哈氏), là một phi tần của Thánh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ##
**Phạm Phi Nhung** (10 tháng 4 năm 1970 – 28 tháng 9 năm 2021), ### Sự nghiệp phát triển Vào tháng 10 năm 1989, Phi Nhung được sang Mỹ theo diện con lai và cư
**Mai phi** (chữ Hán: 梅妃), hay **Giang Mai phi** (江梅妃), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Tương truyền bà sở hữu thân hình mảnh khảnh, yêu thích hoa mai nên
**Ninh Khác phi** (chữ Hán: 寧愨妃; ? - 1694), Đổng Ngạc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Thân thế Ninh Khác phi xuất thân từ dòng họ
**Huỳnh Thúc Kháng** (chữ Nho: 黃叔沆, 1 tháng 10 năm 1876 – 21 tháng 4 năm 1947), tự **Giới Sanh**, hiệu **Mính Viên** (hay đôi khi được viết là **Minh Viên**), là một chí sĩ
**Phù Phi** () (?-386), tên tự **Vĩnh Thúc** (永叔), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Tần Ai Bình Đế** ((前)秦哀平帝), là một hoàng đế của nước Tiền Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
nhỏ **Đại học Tài chính và Kinh tế Thượng Hải** (chữ Hán: 上海财经大学, bính âm: _ShàngHǎi Cáijìng DàXué_) được thành lập năm 1917 tại thành phố Thượng Hải. Đây là trường đào tạo chuyên ngành
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Cung Tĩnh phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 恭靖妃博尔济吉特氏; ? - 1689) là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế. ## Tiểu sử Cung Tĩnh phi xuất thân từ
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Bắc Tề thư** (chữ Hán giản thể: 北齐书; phồn thể: 北齊書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lý Bách Dược
**Tường phi Nữu Hỗ Lộc thị** (chữ Hán: 祥妃鈕祜祿氏; 9 tháng 2, năm 1808 - 15 tháng 2, năm 1861), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang
**Nhất giai Quý phi Nguyễn thị** (chữ Hán: 一階貴妃 阮氏; ? – 1885), không rõ tên húy, nguyên là chính thất của vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Bà mất sau
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Ôn Hi Quý phi** (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 19 tháng 12 năm 1694), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Nữu Hỗ Lộc thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và