✨Triều Tiên Thế Tông

Triều Tiên Thế Tông

Triều Tiên Thế Tông (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế Tông, nhà Minh ban Thụy hiệu Trang Hiến (莊憲), Triều Tiên dâng Thụy hiệu Trang Hiến Anh Văn Duệ Vũ Nhân Thánh Minh Hiếu Đại Vương (Hangul: 장헌영문예무인성명효대왕). Ông trị vì từ năm 1418 đến năm 1450, tổng cộng 32 năm.

Trong 4 năm đầu, Thế Tông cùng cha là Thượng vương Thái Tông cai quản triều chính. Năm 1422, Thái Tông băng hà, Thái Tử Thế Tông chính thức trở thành vua của Triều Tiên. Thế Tông thực hiện nhiều chính sách nhằm khuyến khích khoa học - kỹ thuật, mở mang kinh tế, khuyến khích Nho học và bổ sung những điều khoản mới vào luật pháp. Ông còn cải cách văn tự, ban hành chữ cái tượng thanh Chosŏn'gŭl vào năm 1446, dùng để ký âm tiếng Triều Tiên - bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ phía những nho sĩ coi trọng truyền thống vốn luôn dùng chữ Hán của Trung Quốc. Về đối ngoại, Thế Tông phía bắc tiến đánh Mãn Châu, di dân đến định cư ở vùng này, phía nam đánh đảo Tsushima - tiễu trừ cướp biển Nhật Bản. Ngày nay, Thế Tông được xem là vị minh quân đã đưa văn hóa Triều Tiên đến một thời kỳ rực rỡ. Người dân Hàn Quốc quen gọi ông là Thế Tông Đại Vương (세종대왕, 世宗大王); mặc dù trên thực tế xưng danh Đại Vương đã có mặt trong Thụy hiệu của hầu hết các đời vua Triều Tiên trước năm 1897.

Tuổi trẻ và gia thế

Triều Tiên Thế Tông có tên húy là Lý Đào (李裪, 이도), ông là con thứ ba của Triều Tiên Thái Tông Lý Phương Viễn, mẹ là Nguyên Kính Vương Hậu Mẫn thị, người ở Ly Hưng. Lúc còn làm Vương tử, ông được phong là Trung Ninh Đại Quân (忠寧大君). Khi còn trẻ, Lý Đào học giỏi nhiều môn, nên được vua cha yêu quý hơn hai người anh.

Khi Lý Đào được 12 tuổi, ông được phong làm Đông cung Thế tử (東宫世子) và được gả con gái của Thẩm Ôn (沈溫), một đại quý tộc nguyên quán ở Thanh Tùng (靑松, Cheongsong).

Việc lên ngôi của Lý Đào có nhiều điểm khác với sự lên ngôi của phần lớn các vị Quốc vương Triều Tiên khác. Vương tử trưởng là Nhượng Ninh Đại quân Lý Đề (李褆), nhận thấy mình không đủ tài làm Quốc vương, tin Thế Tông đã có mệnh làm Vương. Cùng với Vương tử thứ 2 là Hiếu Ninh Đại quân Lý Bổ (李補), ông ta cho rằng trách nhiệm của họ là đưa Lý Đào lên ngôi. Vì vậy, họ cố tỏ thái độ cực kỳ vô lễ ở cung đình, và ít lâu sau họ bị trục xuất khỏi Hán Thành.Mưu tính của 2 vương tử này cuối cùng đã đưa Lý Đào lên ngôi. Vương tử trưởng trở thành một lữ khách đi lang thang và sống ẩn dật trên núi. Người con thứ hai đến một ngôi chùa, nơi ông ta xuống tóc đi tu.

Tháng 8 năm 1418, vua Thái Tông nhường ngôi cho Thế tử Lý Đào, tức Thế Tông. Thái Tông làm Thái Thượng vương, tiếp tục nắm thực quyền cai quản quốc gia. Không lâu sau khi Thế Tông lên ngôi, Thái Tông bắt tội Thẩm Ôn (cha vợ Thế Tông) vì phàn nàn việc thượng vương nắm hết đại quyền dù có vua tại vị. Thẩm Ôn bị ép phải uống thuốc độc chết.

Trị vì

Năm 1418, Triều Tiên Thế Tông lên ngôi, nhưng việc nước vẫn do thượng vương Triều Tiên Thái Tông nắm giữ. Năm 1422, Thái Tông mất, Thế Tông tự nắm triều chính, ông đã gây bất ngờ cho quần thần vì sự sáng tạo và hiểu biết chính trị sâu sắc.

Các vua đầu nhà Triều Tiên như Thái Tổ, Thái Tông lên ngôi nhờ sự giúp đỡ của giới quý tộc và quan chức Nho học, nên thường bị những người này chi phối, vương quyền bị giới hạn. Đến Thế Tông, nhà vua ban hành nhiều cải cách về tổ chức nhà nước, quân sự, văn hoá, thuế khoá, nhưng cũng không qua được giới hạn này. Ông thường phải chịu sự ngăn cản và phê bình mạnh mẽ từ giới Nho gia, dù sự phê bình này ở các vương quốc khác có thể bị ghép vào tội khi quân. Tuy nhiên, Thế Tông cũng biết cách kiềm chế nhóm người này mà không cần viện đến vũ lực và sự trừng phạt. Ông tỏ ra hiểu biết và thông thái hơn hẳn các Nho thần dạy học vua trong Kinh diên; ông còn chủ động đưa ra chỉ đạo, hướng dẫn cho các học sĩ điện Tập Hiền; ngoài ra ông tạo ra 1 hệ chữ cái mới bất chấp sự phản kháng quyết liệt của Nho thần. Về cuối đời, ông còn bày tỏ niềm tin và sự sùng kính với Phật giáo dù phần lớn Nho thần thời đó đều bài bác đạo Phật.

Quân sự

Triều Tiên Thế Tông được đánh giá là một nhà chiến lược quân sự lớn. Ông đã ban hành nhiều điều quân lệnh nhằm củng cố quân đội, đồng thời phát triển kỹ thuật quân sự, tăng cường thử nghiệm, sử dụng đại bác cùng nhiều loại pháo cối, cung lửa khác nhau.

Đầu năm 1419, đại danh đảo Đối Mã (Nhật Bản) là Sō Sadamori xua cướp biển đánh phá Triều Tiên. Tháng 6 năm này, thượng vương Thái Tông quyết ý chiếm Đối Mã. Thượng vương bảo Thế Tông sai tướng Lí Tòng Mậu (이종무, 李從茂) đem thủy quân (17.884 người) đánh đảo Đối Mã. Quân Triều Tiên giết 123 quân Nhật, bắt 119, giải thoát 131 người Minh bị cướp biển bắt và 21 nô lệ trên đảo. Đến ngày 26 tháng 6, phục binh Nhật đánh tan quân Triều Tiên ở Nii, làm chết 150 lính. Người Triều Tiên bèn thương lượng với đại danh, đến tháng 7 thì lui về nước. Năm 1443, hai bên ý hòa ước Quý Hợi: đại danh Đối Mã chịu cống nạp vua Triều Tiên; Thế Tông cho phép Đối Mã được thông thương với Triều Tiên sáu mươi tàu thuyền mỗi năm.

Năm 1433, Thế Tông sai tướng Kim Tông Thụy (金宗瑞, 김종서) đánh Mãn Châu ở phía Bắc. Quân Triều Tiên chiếm được một số thành trì, khôi phục lãnh thổ bị mất trước đây, đẩy biên giới của Triều Tiên lên gần bằng biên giới CHDCND Triều Tiên với Trung Quốc hiện nay. Nhà vua cho lập 4 quận và 6 khu đồn trú quân, còn được gọi là tứ quận, lục dinh (四郡六鎭, 사군육진) đế đề phòng dân Mãn Châu phản công.

Khoa học & công nghệ

Triều đại Thế Tông chứng kiến những bước phát triển mạnh về khoa học và kỹ thuật. Năm 1429, Thế Tông sai biên soạn sách Nông sự trực thuyết để hướng dẫn nông dân. Tác phẩm này chứa đựng những thông tin về nhiều kỹ thuật canh tác khác nhau mà vua Thế Tông đã ra lệnh cho các quan chức đi thu thập ở trên khắp đất nước Triều Tiên. Tuy nhiên, sáng chế ấn tượng nhất của ông diễn ra năm 1442, đó là máy đo lượng mưa (vũ lượng kế) đầu tiên trên thế giới; mô hình này hiện không còn tồn tại và máy đo lượng mưa cổ nhất còn tồn tại ở Đông Á được chế tạo năm năm 1770, dưới triều vua Anh Tổ. Theo tác phẩm Thừa chính viện nhật ký (承政院日記, 승정원일기, Sŭngchŏngwŏn Ilki) vua Anh Tổ dự định khôi phục lại sự huy hoàng của thời đại Thế Tông, và vì vậy ông đã đọc một biên niên sử về thời Thế Tông. Sau khi đọc đoạn đề cập tới máy đo lượng mưa, Anh Tổ đã ban chỉ cho sản xuất lại. Do có dấu ấn của vua Càn Long nhà Thanh (trị vì: 1735–1796) của Trung Quốc, niên đại 1770 nên máy đo lượng mưa này của người Triều Tiên đôi khi bị hiểu sai là được nhập khẩu từ Trung Quốc.

Thế Tông cũng tiến hành cải cách hệ thống lịch Triều Tiên, vốn trước đây dựa trên hệ quy chiếu là vĩ độ của kinh thành Trung Quốc. Vua Thế Tông là người đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên ra lệnh cho các nhà thiên văn học Triều Tiên biên soạn một bộ lịch lấy kinh đô Hán Thành làm vĩ độ trung tâm.

Trong lĩnh vực y học cổ truyền Triều Tiên, hai luận thuyết quan trọng đã được viết ra trong thời gian trị vì của Thế Tông. Chúng là Hyangyak chipsŏngbang (Hương dược tập thành phương) và Ŭibang yuch'wi (Y phương loại tụ), được sử gia Yung Sik Kim nhận định là đại diện cho các cố gắng của người Triều Tiên nhằm phát triển hệ thống kiến thức y học riêng của chính mình, khác biệt với những gì của Trung Hoa.

Chosŏn'gŭl

nhỏ|phải|Huấn dân chính âm Thế Tông Đại Vương có một cải cách mang tầm ảnh hưởng lớn đến lịch sử Triều Tiên, đó là ban hành Chosŏn'gŭl, bảng chữ cái ký âm dùng cho tiếng Triều Tiên hiện nay.

Trước khi hệ thống chữ Chosŏn'gŭl được ban hành, Triều Tiên chỉ sử dụng chữ Hán (hancha) trong văn bản, và Hán văn (Hanmun) đôi khi được dùng để viết các văn bản triều chính bằng tiếng Hán cổ. Một người muốn đọc và viết được các văn bản thời đó phải học chữ Hán - một thứ chữ không hề dễ học chút nào. Vì vậy gần như chỉ có những thành viên thuộc tầng lớp thượng lưu của xã hội mới biết chữ, còn đại đa số dân chúng là những người mù chữ. Hơn nữa, mặc dù có nhiều cải biên, việc dùng chữ Hán để ký âm Triều Tiên rất bất cập vì cấu trúc câu và ngữ pháp Triều Tiên mang nhiều điểm khác biệt so với ngữ pháp tiếng Hoa.

Thế Tông Đại Vương chủ trì việc giới thiệu 28 bảng chữ cái Triều Tiên, với mong muốn rằng mọi tầng lớp nhân dân Triều Tiên sẽ đọc và viết được ngôn ngữ này. Ông cũng cố gắng thiết lập sự đồng nhất về văn hoá cho thần dân thông qua cách viết thống nhất. Quyển đầu tiên được xuất bản năm 1446, bất cứ ai cũng có thể học Chosŏn'gŭl khoảng độ mấy ngày. Những người không biết Chosŏn'gŭl cũng có thể cơ bản phát âm được chữ viết tiếng Triều Tiên một cách chính xác chỉ sau vài giờ học. Lý do vì Chosŏn'gŭl là:

Ký tự tượng thanh

Ngôn ngữ Triều Tiên không có thanh điệu (khác với tiếng Hán).

Ông thiết lập các mẫu tự Chosŏn'gŭl từ các đường gạch và gắn mỗi đường với một hình vẽ đã được giản hóa của các hình mẫu tạo thành từ miệng, lưỡi và răng khi tạo ra âm thanh liên quan đến ký tự đó. Nói rộng ra, một ký tự đại thể tương đương như một âm tiết trong tiếng Việt và các từ được cấu thành bằng cách viết các ký tự mang âm tiết theo một cách nào đó. Đây không phải là kiểu viết thành hàng, các ký tự mang âm tiết có khuynh hướng "kết lại" thành những nhóm hai hoặc ba ký tự.

Qua đời và di sản

nhỏ|phải|215x215px|Lăng Thế Tông ở [[Yeoju, Gyeonggi]] Năm 1450, Triều Tiên Thế Tông qua đời ở tuổi 54, được táng ở Anh Lăng (英陵). Vương Thế tử Lý Hướng lên ngôi, đó là Triều Tiên Văn Tông.

Cả hai vị trí trung tâm Seoul: Phố Sejongno và trung tâm nghệ thuật biểu diễn Sejong được đặt theo tên của vua Thế Tông. Ông còn được miêu tả trên các tờ tiền giấy mệnh giá 10.000 Won của Hàn Quốc.

Đầu năm 2007, chính phủ Hàn Quốc đã quyết định thành lập đặc khu trên một phần hiện tại của tỉnh Chungcheongnam-do, gần Daejeon hiện nay. Khu vực mới này được đặt tên là thành phố tự trị đặc biệt Sejong được đặt theo miếu hiệu của Thế Tông, sẽ thay thế thủ đô Seoul trong tương lai.

Cuộc đời của Thế Tông được thể hiện trong loạt phim lịch sử phát sóng trên kênh KBS mang tên Đại Vương Thế Tông vào năm 2008.

Gia đình

  • Thân phụ: Triều Tiên Thái Tông Lý Phương Viễn.
  • Thân mẫu: Nguyên Kính Vương hậu Mẫn thị (元敬王后閔氏; 1365 - 1420), người ở Ly Hưng, con gái thứ của Ly Hưng phủ viện quân Mẫn Tễ (閔霽) và Tam Hàn quốc đại phu nhân Tống thị ở Lệ Sơn (三韓國大夫人礪山宋氏).
  • Hậu cung:

    Chiêu Hiến vương hậu Thẩm thị (昭憲王后沈氏, 1395 - 1446), người ở Thanh Tùng, là con gái của Thanh Xuyên phủ viện quân Thẩm Ôn (靑川府院君沈溫) và Tam Hàn Quốc Đại phu nhân An thị ở Thuận Hưng (三韓國大夫人順興安氏). Bà sinh hạ 8 Vương tử và 2 công chúa, trong đó có Triều Tiên Văn Tông và Triều Tiên Thế Tổ.

    Thận tần Kim thị (慎嬪金氏, 1404 - 1464), người ở Thanh Châu. Cha là Kim Nguyên (金元), mẹ là Cao phu nhân ở Sóc Ninh. Xuất thân hàn vi, bà nhập nội mệnh phủ làm cung nữ của Chiêu Hiến vương hậu, về sau được Thế Tông sủng ái. Tuy vậy, bà cẩn trọng nho nhã, rất được Vương hậu tín nhiệm, thăng làm Chiêu dung (昭容), rồi Chiêu nghi (昭儀). Năm 1439, tấn phong Quý nhân (貴人), vì xuất thân không cao nên quần thần bàn nghị chuyện thăng vị quá cao, tuy vậy Thế Tông vẫn chủ trương yêu mến bà. Năm 1442, tấn phong Thận tần (慎嬪), cao quý nhất trong hàng hậu cung, chỉ kém Vương hậu 1 bậc. Sau khi Thế Tông qua đời, bà xuất gia làm ni sư cho đến khi qua đời. Bà đã hạ sinh cho Thế Tông 6 vị vương tử: Quế Dương quân, Nghĩa Xương quân, Mật Thành quân, Dực Hiện quân, Ninh Hải quân và Đầm Giang quân. Ngoài ra còn 2 ông chúa nhưng đều chết yểu.

    Huệ tần Dương thị (惠嬪楊氏, ? - 1455), người ở Thanh Châu, không rõ xuất thân cha mẹ là ai. Khi vào hầu Thế Tông, phong vị của bà sơ phong Quý nhân (貴人), sau khi Thế Tông qua đời bị buộc ra khỏi cung sống. Năm 1452, vua Văn Tông mất, Dương quý nhân giúp đỡ Triều Tiên Đoan Tông lên ngôi nên được đặt cách tấn phong làm Huệ tần (惠嬪), được Đoan Tông mời về ở trong cung, giao cho quyền lực xử lý hậu cung như bậc trưởng bối. Huệ tần trong cung hoàn hành bè đảng, nhiễu loạn trong triều. Triều Tiên Thế Tổ dùng chính biến lên ngôi, Huệ tần Dương thị bị phế tước vị và bị buộc tự sát. Về sau, Triều Tiên Túc Tông khôi phục phong hiệu, và Triều Tiên Chính Tổ ban thụy là Mẫn Trinh (愍貞). Bà sinh hạ 3 vương tử cho Thế Tông là: Hán Nam quân, Thọ Xuân quân và Vĩnh Phong quân.

    Lệnh tần Khương thị (令嬪姜氏, ? - 1483), người ở Tấn Châu. Không rõ thân phận khi còn sống của bà, theo lăng mộ trong lăng của Thế Tông thì bà chỉ là Cung nhân Khương thị. Về sau, xét công lao sinh ra Hòa Nghĩa quân Lý Anh, triều đình đồng ý gọi là với phong hiệu [Lệnh tần; 令嬪].

    Quý nhân Phác thị (貴人朴氏, 1369 - 1422), người ở Mật Dương.

    Quý nhân Thôi thị (貴人崔氏, 1376 - 1452), người ở Toàn Châu.

    Chiêu dung Hồng thị (昭容洪氏).

    Thục nghi Tào thị (淑儀曺氏).

    Thục viên Lý thị (淑媛李氏).

    Thượng tẩm Tống thị (尚寢宋氏).

    Tư ký Xa thị (司記車氏).

Vương tử

Triều Tiên Văn Tông Lý Hướng [李珦], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu.

Triều Tiên Thế Tổ Lý Nhu [李瑈], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu.

An Bình Đại quân Lý Dung [安平大君李瑢, 1418 - 1453], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Lấy Phủ phu nhân Trịnh thị ở Diên Nhật.

Lâm Quán Đại quân Lý Cầu [臨瀛大君李璆, 1420 - 1469], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Lấy Quận phu nhân Nam thị ở Nghi Ninh và Tề An phủ phu nhân Thôi thị ở Toàn Châu.

Quảng Bình Đại quân Lý Dư [廣平大君李璵, 1425 - 1444], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Lấy Vĩnh Gia Phủ phu nhân Thân thị ở Bình Sơn.

Hòa Nghĩa quân Lý Anh [和義君李瓔, 1425 - 1460], mẹ là Lệnh tần Khương thị. Lấy quận phu nhân Phác thị ở Mật Dương.

Cẩm Thành Đại quân Lý Du [錦城大君李瑜, 1426 - 1457], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Lấy Hoàn Sơn Phủ phu nhân Thôi thị ở Toàn Châu.

Quế Dương quân Lý Tằng [桂陽君李璔, 1427 - 1464], mẹ là Thận tần Kim thị. Lấy Tinh Thiện Quận phu nhân Hàn thị ở Thanh Châu.

Bình Nguyên Đại quân Lý Lâm [平原大君李琳, 1427 - 1445], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Lấy Giang Ninh Phủ phu nhân Hồng thị ở Nam Dương.

Nghĩa Xương quân Lý Công [義昌君李玒, 1428 - 1460], mẹ là Thận tần Kim thị. Lấy Lương Nguyên Quận phu nhân Kim thị ở Diên An.

Hán Nam quân Lý Vu [漢南君李玗, 1429 - 1459], mẹ là Huệ tần Dương thị. Lấy Quận phu nhân Quyền thị ở An Đông.

Mật Thành quân Lý Sâm [密城君李琛, 1430 - 1479], mẹ là Thận tần Kim thị. Lấy Phong Đức Quận phu nhân Mẫn thị ở Ly Hưng.

Thọ Xuân quân Lý Huyền [壽春君李玹, 1431 - 1455], mẹ là Huệ tần Dương thị. Lấy Vinh Xuyên Quận phu nhân Trịnh thị ở Diên Nhật.

Dực Hiện quân Lý Quản [翼峴君李璭, 1431 - 1463], mẹ là Thận tần Kim thị. Lấy Kim Đê Quận phu nhân Triệu thị ở Bình Nhưỡng.

Vĩnh Ưng Đại quân Lý Diễm [永膺大君李琰, 1434 - 1467], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Lấy Xuân Thành Phủ phu nhân Trịnh thị ở Hải Châu và Đái Phương phủ phu nhân Tống thị ở Lệ Sơn.

Vĩnh Phong quân Lý Tuyền [永豊君李瑔, 1434 - 1456], mẹ là Huệ tần Dương thị. Lấy Quận phu nhân Phác thị ở Thuận An.

Ninh Hải quân Lý Đường [寧海君李瑭, 1435 - 1477], mẹ là Thận tần Kim thị. Lấy Lâm Xuyên Quận phu nhân Thân thị ở Bình Sơn.

Đầm Giang quân Lý Cừ [潭陽君李璖, 1439 - 1450], mẹ là Thận tần Kim thị.

Vương nữ

Trinh Chiêu Công chúa [貞昭公主, 1412 - 1424], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu.

Trinh Ý Công chúa [貞懿公主, 1415 - 1477], mẹ là Chiêu Hiến vương hậu. Hạ giá lấy Diên Xương úy An Mạnh Đam (安孟聃).

Hai con gái với của Thận tần Kim thị.

Trinh Hiển Ông chúa [貞顯翁主, 1424 - 1480], mẹ là Thượng tẩm Tống thị. Hạ giá lấy Linh Xuyên quân Doãn Sư Lộ (尹師路).

Trinh An Ông chúa [貞安翁主, ? - 1461], mẹ là Thục viên Lý thị. Hạ giá lấy Thẩm An Nghĩa (沈安義).

Một con gái với của Tư ký Xa thị.

Miếu hiệu và thuỵ hiệu

  • Sejong Jangheon Yeongmun Yemu Inseong Myeonghyo Daewang.
  • 세종장헌영문예무인성명효대왕.
  • 世宗莊憲英文睿武仁聖明孝大王.
  • Thế Tông Trang Hiến Anh Văn Duệ Vũ Nhân Thánh Minh Hiếu Đại Vương.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
**Triều Tiên Thế Tổ** (chữ Hán: 朝鮮世祖; Hangul: _조선 세조_, 7 tháng 11, 1417 – 8 tháng 9, 1468), là vị quốc vương thứ 7 của nhà Triều Tiên. Cai trị từ năm 1455 đến
**Triều Tiên Thái Tông** (chữ Hán: 朝鮮太宗; Hangul: 조선 태종; 13 tháng 6, 1367 – 8 tháng 6, 1422), còn gọi là **Triều Tiên Thái Tông Cung Định đại vương** (朝鮮太宗恭定大王) hay **Triều Tiên Cung
**Triều Tiên Văn Tông** (chữ Hán: 朝鮮文宗; Hangul: 조선문종; 3 tháng 10, 1414 - 14 tháng 5, 1452), là vị Quốc vương thứ năm của nhà Triều Tiên. Ông trị vì tổng cộng 2 năm,
**Triều Tiên Đoan Tông** (1441–1457), là vị Quốc vương thứ sáu của nhà Triều Tiên, trị vì từ năm 1452 đến năm 1455. ## Cuộc đời ### Thân thế Vào ngày 9 tháng 8 năm
**Triều Tiên Trung Tông** (chữ Hán: 朝鮮中宗; Hangul: 조선중종; 16 tháng 4, 1488 – 29 tháng 11, 1544) là vị Quốc vương thứ 11 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1506 đến năm
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Triều Tiên Nhân Tông** (chữ Hán: 朝鮮仁宗; Hangul: 조선 인종; 10 tháng 3, 1515 – 8 tháng 8, 1545) là vị vua thứ 12 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm 1544 đến
**Triều Tiên Thành Tông** (chữ Hán: 朝鮮成宗; Hangul: 조선 성종, 20 tháng 8, 1457 - 20 tháng 1, 1495), là vị quốc vương thứ 9 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ năm 1469
**Triều Tiên Túc Tông** (chữ Hán: 朝鲜肃宗, Hangul: 조선 숙종; 7 tháng 10 năm 1661 – 8 tháng 6 năm 1720) là Quốc vương thứ 19 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1674
**Triều Tiên Cảnh Tông** (chữ Hán: 朝鮮景宗; Hangul: 조선 경종; 1688 - 1724), là vị Quốc vương Triều Tiên thứ 20, trị vì trong 4 năm, từ 1720 đến năm 1724. Cảnh Tông đại vương,
**Triều Tiên Định Tông** (chữ Hán: 朝鮮定宗; Hangul: 조선 정종; 1357 - 1419), là vị quân chủ thứ hai của triều đại Nhà Triều Tiên. Ông cai trị từ năm 1398 đến khi thiện nhượng
**Triều Tiên Minh Tông** (chữ Hán: 朝鮮明宗, Hangul: 조선명종, 3 tháng 7, 1534 – 3 tháng 8, 1567) là vị quốc vương thứ 13 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì trong khoảng từ năm
**Triều Tiên Triết Tông** (25 tháng 7, 1831 - 16 tháng 1, 1864) tên thật là **Lý Biện** (Yi Byeon; 李昪), là vị vua thứ 25 của nhà Triều Tiên, cai trị từ năm 1849
**Triều Tiên Thuần Tông**(Hangul: 융희제; Hanja: 朝鮮純宗, Hán-Việt: Triều Tiên Thuần Tông) (1874 – 24 tháng 4 năm 1926) là vị vua thứ 27 và là cuối cùng nhà Triều Tiên, cũng như là Hoàng
**Triều Tiên Hiếu Tông** (chữ Hán: 朝鮮孝宗; 3 tháng 7 năm 1619 - 23 tháng 6 năm 1659), là vị Quốc vương thứ 17 của nhà Triều Tiên. Ông trị vị từ năm 1649 đến
**Triều Tiên Hiến Tông** (8 tháng 12, 1827 –25 tháng 7, 1849), cai trị từ năm 1834-1849, là vị vua thứ 24 của nhà Triều Tiên. Ông là con trai của Hiếu Minh Thế tử
**Triều Tiên Hiển Tông** (chữ Hán: 朝鮮顯宗; Hangul: 조선 현종; 14 tháng 3 năm 1641 - 17 tháng 9 năm 1674), là vị Quốc vương thứ 18 của nhà Triều Tiên. Ông trị vị từ
**Triều Tiên Duệ Tông** (chữ Hán: 朝鲜睿宗; Hangul: _Joseon Yejong_, 1450 - 1469), là vị quốc vương thứ 8 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì trong thời gian ngắn ngủi, từ ngày 22 tháng
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Triều Tiên Anh Tổ** (chữ Hán: 朝鮮英祖; Hangul: 조선 영조, 31 tháng 10 năm 1694 – 22 tháng 4 năm 1776) là vị quốc vương thứ 21 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
**Triều Tiên Thái Tổ** (chữ Hán: 朝鮮太祖; Hangul: 조선 태조; 4 tháng 11 năm 1335 – 27 tháng 6 năm 1408), tên khai sinh là **Lý Thành Quế (Yi Seong-gye)** là người sáng lập ra
**Triều Tiên** (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Chosŏn'gŭl: 조선, Hanja: 朝鮮, McCune–Reischauer: Chosǒn), **Hàn Quốc** (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân Quốc: ), **liên Triều**
nhỏ|261x261px|[[Thành Hwaseong]] **Triều Tiên Chính Tổ** (chữ Hán: 朝鮮正祖; Hangul: 조선정조, 28 tháng 10 năm 1752 – 28 tháng 6 năm 1800) là vị quốc vương thứ 22 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì
**Trinh Ý Công chúa **(貞懿公主, 1415 - 11 tháng 2, 1477) là công chúa nhà Triều Tiên, vương thứ nữ của Triều Tiên Thế Tông và Chiêu Hiến Vương hậu Thẩm thị, em gái của
Lịch sử quân sự Triều Tiên kéo dài hàng nghìn năm, bắt đầu từ Cổ Triều Tiên và tiếp tục cho đến ngày nay với Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên. Các nhà quân sự
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Triều Tiên Nhân Tổ** (chữ Hán: 朝鮮仁祖; Hangul: 조선 인조, 7 tháng 12 năm 1595 - 17 tháng 6 năm 1649), là vị quốc vương thứ 16 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ
**Triều Tiên thuộc Nhật** (, Dai Nippon Teikoku (Chōsen)) là giai đoạn bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản cai trị, được bắt đầu kể từ khi Nhật Bản ép vua
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trên bán đảo Triều Tiên trong lịch sử, hiện bán đảo này bị chia cắt thành 2 nước là Cộng hòa dân chủ
**Triều Tiên Tuyên Tổ** (chữ Hán: 朝鮮宣祖; Hangul: 조선 선조; 26 tháng 11, 1552 - 16 tháng 3 năm 1608), là vị quốc vương thứ 14 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm
**Tổng tư lệnh Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () là người nắm quyền chỉ huy cao nhất đối với toàn bộ Quân đội Nhân dân Triều Tiên của
**Triều Tiên Thuần Tổ** (chữ Hán: 朝鮮純祖; Hangul: 조선 순조; 29 tháng 7 năm 1790 - 13 tháng 12 năm 1834) là vị Quốc vương thứ 23 của nhà Triều Tiên. Ông cai trị từ
**Chủ tịch Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () là lãnh đạo tối cao, nguyên thủ quốc gia của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và tổng
**Đảng Cộng sản Triều Tiên **(), thường gọi tắt là **Triều Cộng**, là một chính đảng theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại một hội nghị bí mật ở
Xuyên suốt thời kỳ quân chủ của nhà Triều Tiên, tước hiệu và tôn xưng hiệu (jonchingho, 존칭호, 尊稱號) (dùng để xưng hô) của vương thất rất đa dạng và phức tạp. Các vị quân
**_Triều Tiên Khu ma sư_** (; tiếng Anh: _Joseon Exorcist_; lit.:_ Pháp sư đuổi ma Triều Tiên_) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2021 thuộc thể loại siêu nhiên-giả tưởng. Bộ phim
() cũng có thể gọi theo tiếng Nhật chuyển tự Latinh là **_Zainichi_** là những người Triều Tiên di cư đến Nhật Bản trước năm 1945 và trở thành công dân hoặc thường trú nhân
**Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** ( - **State Affairs Commission of the Democratic People's Republic of Korea** (**SAC**)) được định nghĩa bởi hiến pháp năm 2016 là "cơ
Trong **Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên**, Nội các là cơ quan hành chính và hành pháp. Chính phủ Triều Tiên bao gồm ba nhánh: hành chính, lập pháp và tư
thumb|Bản đồ biên giới giữa Liên Xô và CHDCND Triều Tiên (1954) **Biên giới Bắc Triều Tiên - Nga**, theo định nghĩa chính thức của Nga, bao gồm 17 km (11 mi) đường bộ và 22,1 km (12
**Quý nhân Triệu thị** (Hanja: 貴人趙氏, Hangul: 귀비조씨; 1615 - 24 tháng 01, 1652), cũng gọi là **Quý nhân Triệu thị** hoặc **Phế quý nhân Triệu thị**, là một hậu cung tần ngự và Nội
Một đội tuyển thống nhất của Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên đã thi đấu với tên gọi "Triều Tiên" tại Thế vận hội Mùa đông 2018 ở môn khúc côn cầu trên băng. Tại
**Triều Tiên Thuần Tông** (_chữ Hán_:朝鮮純宗) có thể là những vị quân chủ sau: ## Danh sách *Triều Tiên Thuần Tông Lý Công (1800-1834) sau đổi miếu hiệu là Thuần Tổ *Đại Hàn Thuần Tông
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía