✨Nhà Tân

Nhà Tân

Nhà Tân () (9-23) là một triều đại tiếp sau nhà Tây Hán và trước nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Vị hoàng đế duy nhất của nhà Tân là Vương Mãng.

Thành lập

:Xem chi tiết: Vương Mãng Từ khi hoàng hậu Vương Chính Quân, vợ vua Hán Nguyên Đế đắc sủng, ngoại thích họ Vương bắt đầu tham gia triều chính: các anh em Vương hoàng hậu là Vương Phượng, Vương Căn, Vương Thương, Vương Lập, Vương Âm được phong làm đại thần trong triều. Một người em khác của Vương hậu là Vương Mạn mất sớm, con là Vương Mãng khi lớn cũng được đưa vào triều làm quan.

Nhờ chăm chỉ học hành và tỏ ra khiêm tốn, liêm khiết, hết lòng vì việc công, gạt bỏ những chuyện riêng tư, Vương Mãng được sự tín nhiệm của mọi người. Ông lần lượt thăng tiến vào các chức vụ quan trọng trong triều, kế tục các chức: Năm 16 TCN làm Kỵ đô uý, năm 8 TCN thăng lên Đại Tư mã. Khi Hán Thành Đế qua đời không có con nối, một người trong tông thất, cháu trai của bà Vương Chính Quân là Hán Ai Đế lên ngôi (7 TCN), lực lượng ngoại thích mới vào triều nắm quyền. Vương Mãng thất thế trong cuộc đấu tranh quyền lực và phải rút lui khỏi chính trường một thời gian.

Ông bắt đầu lấy lại quyền lực sau cái chết của Hán Ai Đế vào năm 1 TCN. Hán Ai Đế hoang dâm và mất sớm, Vương Mãng nhanh chóng trở lại chính trường với sự hậu thuẫn của cô Vương Chính Quân vẫn còn ảnh hưởng trong triều đình. Ông lần lượt loại bỏ các phe cánh ngoại thích mới của họ Phó, họ Đinh và họ Vệ, một mình nắm quyền. Ông dựng các vị vua thiếu niên lên ngôi để dễ khống chế.

Sau nhiều năm thăng tiến, khuynh loát quyền hành trong triều, Vương Mãng cuối cùng ông đã đầu độc Hán Bình Đế (năm 5) và phế Hán Nhũ Tử (Lưu Anh), lên ngôi hoàng đế vào năm 8 (năm 9 theo dương lịch).

Đối nội

:Xem chi tiết: Cải cách thời Vương Mãng

Vương Mãng mang hoài bão phục cổ, tái tạo nền văn minh cổ xưa, xây dựng một thế giới lý tưởng. Ông đã thực hiện hàng loạt cải cách ảnh hưởng toàn diện đến xã hội Trung Quốc khi đó. Mặc dù có những ý tưởng lớn lao nhưng cuộc cải cách của Vương Mãng không thực tế khiến nó không thể đi đến thành công. Các cải cách của ông nhằm đạt đến mục tiêu hoàn mỹ và ông không ngần ngại động chạm đến tất cả mọi người.

Cải cách kinh tế

Năm 9, Vương Mãng ban hành cải cách. Các chính sách chủ đạo của Vương Mãng là:

Chế độ "vương điền": Đất đai thuộc sở hữu của triều đình, tư nhân không được phép mua bán. Phân phối lại ruộng đất, không có tá điền, trên nguyên tắc mỗi cặp vợ chồng được chia 100 mẫu. Chính sách này động chạm đến gần như cả xã hội: nó không chỉ đụng chạm rất nhiều đến lợi ích của người có nhiều ruộng đất trong xã hội phong kiến (tầng lớp địa chủ) khiến họ tìm cách che giấu, phân tán và chống đối; với người nông dân, những hứa hẹn ban đầu về ruộng đất có thể khiến họ phấn chấn nhưng sau đó hiệu quả thực thi không có khiến họ trở nên phẫn nộ.

Chấm dứt chế độ nô lệ, chấm dứt mua bán nô tỳ. Thực hiện lao động bắt buộc: người vô công rỗi nghề mỗi năm phải nộp 1 tấm vải, nếu không đóng được thì bị phạt phải đi lao động khổ sai. Vương Mãng ngăn cản việc mua bán, đảm bảo cho nông thôn có sức lao động để triều đình không bị thất thu. Nhưng Vương Mãng lại không hề đề ra biện pháp nào để ngăn chặn việc những người nông dân bị bần cùng hoá cũng sẽ phải trở thành nô tỳ. Một mặt, Vương Mãng ra quy định cấm mang vợ con người khác bán làm nô tỳ, mặt khác ông lại quy định ai phạm lệnh cấm sẽ bị sung làm nô tỳ. Các chủ nô thì bị động chạm lợi ích nên tìm cách chống đối, mặt khác họ cũng có nguy cơ bị trở thành nô tỳ nếu phạm lệnh cấm, do đó số người phản đối ngày một nhiều.

Cải cách về tiền tệ gây nhiều hỗn loạn nhất trong xã hội Trung Quốc khi đó. Vương Mãng nhiều lần hạ lệnh cải cách tiền tệ và lần nào cũng phức tạp, gây phiền hà cho đời sống. Tiền mới nhẹ hơn tiền cũ khuyến khích người ta đúc giả. Vương Mãng lại ra lệnh từ liệt hầu trở xuống không được trữ vàng. Điều đó khiến các địa chủ nhỏ, trung bình và thương nhân rất bất mãn. Cực đoan hơn, Vương Mãng còn ra quy định bất kỳ ai ra đường cũng phải mang theo "bố tiền" (tiền mới của triều đình), nếu không thì bị xem là thiếu chứng minh hợp pháp. Khi tiền tệ trở thành một thứ giấy thông hành thì tác dụng lưu thông của nó cũng không còn.

Thực thi chế độ chuyên doanh: chính quyền trung ương chuyên doanh rượu, muối và đồ sắt. Thực hiện chính sách kinh tế có kế hoạch, giá cả do triều đình khống chế nhằm ngăn chặn con buôn thao túng thị trường, loại trừ hiện tượng có người giàu người nghèo. Ông xuống chiếu thi hành "Ngũ quân lục quản", tại những thành lớn như Trường An, Lạc Dương, Hàm Đan, Lâm Tri, Uyển thành, Thành Đô… có một tổ chức gọi là Ngũ quân ty thị sư để quản lý thị trường. Vào giữa mỗi quý sẽ có quan Ty thị vật giá đi bình xét ở địa phương, gọi là "thị bình". Nếu vật giá cao hơn "thị bình" quan Ty thị sẽ bán ra theo giá thị bình; nếu vật giá thấp hơn thị bình thì dân chúng được phép mua bán tự do. Những mặt hàng nhu yếu phẩm như ngũ cốc, vải vóc nếu bị ế ẩm thì Ty thị sẽ mua theo giá vốn. Vương Mãng muốn triều đình khống chế giá cả để làm lợi cho dân, nhưng ông lại bổ nhiệm nhân sự không thoả đáng. Ông cho những thương gia giàu có giữ chức Lục quản. Những người này đều lợi dụng chức vụ để thao túng thị trường, câu kết với các thương nhân tuỳ ý định giá để làm giàu.

Thuế thu nhập thu theo công thức "thập nhất" (1/10) đối với người tự do kiếm sống như kinh doanh công thương, kiếm bắt hái lượm trong rừng, săn bắt cá, bói toán, chữa bệnh, chăn tằm… Ai cố ý giấu giếm không khai báo sản phẩm kiếm được sẽ bị phạt làm lao động khổ sai 1 năm. Vương Mãng có phần hà khắc với những người lao động nghèo khổ. Bản thân họ không có ruộng đất, phải vào rừng, ra sông mưu sinh từng bữa nhưng cũng phải nộp thuế là một gánh nặng, khiến họ tuyệt đường sinh sống.

Cải cách hành chính

Vương Mãng ra lệnh thay đổi tên gọi các địa phương theo ý thích, bất kể thói quen nhiều đời và điều kiện vật chất ở các nơi đó. Không chỉ như vậy, ông còn ra lệnh điều chỉnh khu vực hành chính và chức năng quyền hạn của các đơn vị hành chính.

Mặc dù mỗi lần thay đổi là tạo ra nhiều rắc rối, nhưng Vương Mãng vẫn tiếp tục thay đổi nhiều lần. Có quận trong vòng 1 năm đổi tên tới 5 lần, cuối cùng lại dùng tên cũ ban đầu.

Sự phức tạp của tên gọi hành chính khiến tất thảy quan lại và dân chúng đều chán ghét.

Đối ngoại

Vương Mãng tiến hành các cuộc chiến tranh gây chiến với các nước phía tây, gây oán với Câu Ninh vương ở Tây nam, tiến đánh đất Ba Thục, tại những nơi có khí hậu khắc nghiệt quân sĩ 10 phần bị bệnh dịch chết đến 6 phần.

Vương Mãng uy hiếp người Khương phải hiến vùng đất xung quanh hồ Thanh Hải để lập quận Tây Hải qua đó sẽ kết hợp các quận Bắc Hải, Nam Hải, Đông Hải, Tây hải thành Tứ hải. Để lập quận Tây Hải, Vương Mãng cưỡng chế di dân, đặt ra 50 điều luật để có nhiều người phạm tội cho đủ số và bắt đày đi Tây hải, gây bao oán ghét trong dân và Đại quận nổ ra những cuộc phản kháng của nhân dân chống lại việc binh dịch đánh Hung Nô, đông vài ngàn người. Năm 16, tại Lang Nha, Hải Khúc nổ ra cuộc phản kháng do người phụ nữ là Lã Mẫu đứng đầu. Lã Mẫu tự xưng là tướng quân, quân đông vài vạn người. Cùng năm đó ở quận Cối Kê nổ ra cuộc nổi dậy của Qua Điền.

Năm 17, những người dân bị đói kém ở Tân Thị thuộc Kinh châu theo Vương Khuông, Vương Phượng nổi dậy khởi nghĩa chống triều đình. Ít lâu sau, các cánh quân khởi nghĩa khác của Mã Vũ ở Nam Dương, Vương Thường và Thành Đan ở Dĩnh Xuyên đến gia nhập, quân khởi nghĩa lớn mạnh nhanh chóng. Vì cánh quân này lấy núi Lục Lâm làm căn cứ nên được gọi là quân Lục Lâm.

Năm 18, hơn 100 người nghèo khổ ở Lang Nha theo Phàn Sùng khởi nghĩa ở đất Cử. Do hai vùng Thanh châu, Từ châu mắc thiên tai, nhân dân đi theo Phàn Sùng rất đông. Để phân biệt với quân nhà Tân, quân khởi nghĩa nhuộm đỏ lông mày, nên gọi là quân Xích Mi. Cánh quân của Phùng An và Dương Âm có vài vạn người về quy phục Phàn Sùng. Một thời gian sau, khi Lã Mẫu chết, tàn quân cũng kéo về theo Phàn Sùng. Quân Xích Mi lập căn cứ ở Thái Sơn, hoạt động ở Thái Am, Lai Vu, Phì Thành, Bình Âm, Đông A thuộc nam bắc sông Hoàng Hà.

Năm 20, phát sinh thêm các cuộc nổi dậy của Phùng Tích Cầu ở Cự Lộc và Tần Phong ở Nam Quận.

Hai cánh quân khởi nghĩa Lục Lâm và Xích Mi trở thành lực lượng chống nhà Tân mạnh nhất.

Mặt trận tan vỡ

Vương Mãng phái các tướng cầm quân đi dẹp. Năm 21, quan trấn thủ Kinh châu được lệnh mang 2 vạn quân trấn dẹp quân Lục Lâm, bị quân Lục Lâm dưới quyền chỉ huy của Vương Khuông đánh tan ở Vân Đỗ. Cùng năm, Vương Mãng lại phái thái sư Cảnh Thượng đi đánh quân Xích Mi, cũng bị quân Xích Mi tiêu diệt, Cảnh Thượng bị tử trận. Vương Mãng nghe tin bèn sai thái sư mới là Vương Khuông cùng Liêm Đan chỉ huy quân Cánh Thủy mang hơn chục vạn quân đi dẹp Xích Mi, bị quân chủ lực của Phàn Sùng ở Thành Xương đánh cho đại bại. Liêm Đan tử trận, Vương Khuông chạy trốn. Quân Xích Mi sau trận đó phát triển lên hơn 10 vạn người.

Sang năm 22, quân Lục Lâm được sự gia nhập của quân Bình Lâm của Trần Mục và một tông thất nhà Hán là Lưu Huyền; sau đó cánh quân Thung Lăng của anh em tông thất thuộc chi khác nhà Hán là Lưu Diễn và Lưu Tú cũng đến gia nhập. Lực lượng quân Tân Thị mạnh lên nhiều.

Năm 23, quân Lục Lâm tôn Lưu Huyền lên làm hoàng đế với danh nghĩa khôi phục nhà Hán để đánh nhà Tân, tức là vua Canh Thủy Đế.

Tháng 6 năm 23, quân Lục Lâm đánh chiếm Uyển Thành và Côn Dương. Vương Mãng phái đại tư không Vương Ấp và đại tư đồ Vương Tầm thống lĩnh hơn 43 vạn quân đến đánh Côn Dương. Lực lượng quân Lục lâm ở đây chỉ có 8000 quân cố thủ. Trong tình thế nguy cấp Lưu Tú dẫn 13 người phá vây xông ra ngoài thành và nhanh chóng dẫn mấy ngàn quân cứu viện trở lại giải vây. Thừa lúc quân của Vương Ấp khinh địch lơi lỏng, Lưu Tú thống lĩnh 3000 quân bất ngờ tấn công đại phá quân địch. Quân trong thành cũng xông ra ngoài 2 mặt giáp công tiêu diệt quân chủ lực của Vương Ấp, giết chết Vương Tầm. Đây là trận Côn Dương, trận đánh bước ngoặt trong cuộc chiến chống nhà Tân.

Nhân lúc quân Tân thua tan tác, các thổ hào các vùng nổi dậy cát cứ: Quỳ Ngao ở Thiên Thủy, Công Tôn Thuật ở Thành Đô, Đậu Dung ở Tây Hà, Lý Hiến ở Lư Giang, Trương Bộ ở Lang Nha, Đổng Hiến ở Đông Hải… Chính quyền nhà Tân lúc đó rất suy yếu, thực tế chỉ còn Trường An và Lạc Dương. Nhân đà thắng lợi, quân Lục Lâm chia làm hai đường tiến đánh nhà Tân: Một cánh đánh về phía tây, vào cửa Vũ Quan để tiến vào Trường An; cánh quân kia tiến đánh Lạc Dương.

Tháng 7 năm 23, thành Lạc Dương bị quân Lục Lâm hạ, thái sư nhà Tân là Vương Khuông và Ai Chương bị bắt sống mang về Uyển Thành chém đầu.

Kết cục tại Trường An

Tình hình Trường An nguy ngập. Trong thành, Vệ tướng quân Vương Thiệp, Quốc sư Lưu Hâm và Đại tư mã Đổng Trung mưu bắt Vương Mãng để đầu hàng Lưu Huyền. Nhưng 3 người không quyết đoán hành động, lại muốn chờ tới lúc "sao Thái Bạch mọc" mới khởi sự, nên việc bị bại lộ. Cả ba người đều bị giết.

Tháng 9 năm 23, lúc quân Lục Lâm vượt qua ải Vũ Quan, tiến đánh Tích Thủy, Đan Thủy thì cánh quân mới nổi dậy của Quỳ Ngao cũng chĩa mũi tấn công vào kinh thành nhà Tân. Kinh thành bị ép từ hai phía đông tây.

Vương Mãng vội tha cho các tù nhân trong kinh thành, sai ra đánh địch. Nhưng cánh quân này vừa ra khỏi Vị Kiều lại làm phản, đào phá mộ tổ nhà họ Vương, đốt cháy quan tài và các công trình miếu thờ của triều đình như Minh Đường, Tịch Ung…

Khi quân Lục Lâm tiến vào Trường An thì nhân dân trong thành cũng vùng dậy chống triều đình. Ngày 3 tháng 10, Vương Mãng và các công khanh, đại phu và hoạn quan chạy đến Tiệm Đài, hy vọng vào sự ngăn trở của hồ nước xung quanh để chống lại quân địch. Quân Lục Lâm kéo đến nơi, vây Tiệm Đài nhiều lớp. Hai bên đánh giáp lá cà. Cha con Vương Ấp xung đột rồi đều tử trận. Các công khanh khác trong Tiệm Đài cũng bị giết. Trong lúc lộn xộn ở Tiệm Đài, Vương Mãng bị thương nhân Đỗ Ngô giết chết. Nhà Tân sụp đổ, tồn tại tất cả 16 năm (9 – 23).

Cuộc hỗn chiến giữa các lực lượng chống nhà Tân như quân Lục Lâm, quân Xích Mi và các thế lực cát cứ khác cuối cùng dẫn đến sự thành lập của nhà Đông Hán do một tông thất nhà Hán ly khai từ quân Lục Lâm là Lưu Tú đứng đầu.

Nguyên nhân thất bại

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Nhà Tân** () (9-23) là một triều đại tiếp sau nhà Tây Hán và trước nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Vị hoàng đế duy nhất của nhà Tân là Vương Mãng. ##
Dưới đây là danh sách các phiên vương thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong trường hợp một chư hầu quốc bị trừ bỏ vì các lý do như mưu phản, phạm tội,
**Câu lạc bộ bóng đá trong nhà Tân Hiệp Hưng** (_Tan Hiep Hung Futsal Club_) là một câu lạc bộ bóng đá trong nhà tại Việt Nam. Họ thi đấu tại giải bóng đá trong
**Hiếu Mục Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝睦王皇后; ? – 21), là người vợ và cũng là Hoàng hậu đầu tiên của Vương Mãng, người lập ra triều đại nhà Tân. ## Tiểu sử Hiếu
**Thạch Sùng** (chữ Hán: 石崇; 249-300) là quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời. ## Biết con không ai bằng cha Thạch
**Tuân Úc** (còn có cách phiên âm Hán Việt khác là **Tuân Húc**, chữ Hán: 荀勖, bính âm: Xún Xù, ? – 289), tên tự là **Công Tằng** (公曾), người huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh
**Trương Hàn** (chữ Hán: 张翰, ? - ?), tên tự là **Quý Ưng**, người huyện Ngô, quận Ngô , là nhà văn đời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Cha là
**Mã Long** (chữ Hán: 马隆, ? - ?), tên tự là **Hiếu Hưng**, người huyện Bình Lục, quận Đông Bình, là tướng lĩnh đầu đời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp
**Chu Tuấn** (chữ Hán: 周浚, ? - ?), tên tự là **Khai Lâm**, người huyện An Thành, quận Nhữ Nam , tướng lãnh đầu đời Tây Tấn, có công tham gia diệt Đông Ngô. ##
**Lưu Vĩnh** (chữ Hán: 刘永, ? – 27), sinh quán Tuy Dương, Lương Quận, Dự Châu , hoàng thân nhà Hán, thủ lĩnh tối cao trên danh nghĩa của các lực lượng quân phiệt vùng
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301), tên tự là **Tuấn Trung**, nguyên quán là quận Lang Gia, quan viên nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là bộ hạ thân tín
**Lưu Hoằng** (chữ Hán: 刘弘, 236 – 306), tên tự là **Hòa Quý** hay **Thúc Hòa** , người huyện Tương, Bái (quận) quốc, Duyện Châu , tướng lãnh cuối đời Tây Tấn. ## Khởi nghiệp
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tần vương Tử Anh** (chữ Hán: 秦王子嬰, bính âm: _Qínwáng Zǐyīng_; ? - 207 TCN), thuỵ hiệu **Tần Thương Đế** (秦殇帝), là vị vua thứ ba và cũng là vua cuối cùng của nhà Tần
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Tấn Hoài đế** (chữ Hán: 晉懷帝, 284-313), hay **Tấn Hoài vương** (晉懷王), tên thật là **Tư Mã Xí** (司馬熾), tên tự là **Phong Đạc** (豐度), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Tấn trong
**Chiến tranh Tần – Việt** là cuộc kháng chiến chống nhà Tần mở rộng về phía nam của các bộ tộc Bách Việt ở vùng Hoa Nam, đây là các tộc người phân bố ở
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần** là một chuỗi những chiến dịch quân sự vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN nhằm thống nhất lãnh thổ Trung Hoa do nước Tần thực hiện
**Tần Gia** (chữ Hán: 秦嘉, bính âm: _Qín Jiā_, ? – 208 TCN) là tướng nước Sở cuối thời nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia khởi nghĩa chống sự cai trị
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王浚; 252-314) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào loạn bát vương và trở thành lực lượng quân phiệt khi Ngũ Hồ tràn vào
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王濬; 206-285) là đại tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công góp phần tiêu diệt nước Đông Ngô, thống nhất Trung Quốc sau thời kỳ chia
**Tần Nhị Thế** **Hoàng đế** (chữ Hán: 秦二世; 230 TCN - 207 TCN), hay **Nhị Thế Hoàng đế** (二世皇帝), tên thật là **Hồ Hợi** (胡亥), _tính_ **Doanh** (嬴), _thị_ **Tần** (秦), là vị Hoàng đế
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Tấn Hiếu Vũ Đế** () (362–396), tên thật là **Tư Mã Diệu** (司馬曜), tên tự **Xương Minh** (昌明), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 14 của
**Tấn Mẫn đế** (chữ Hán: 晋愍帝, 300-318), tên thật là **Tư Mã Nghiệp** (司馬鄴), tên tự là **Ngạn Kì** (彥旗) là vị vua thứ năm của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia
**Tấn Thành Đế** () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là **Tư Mã Diễn** (司馬衍), tên tự **Thế Căn** (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Cung Đế** () (386–421), tên thật là **Tư Mã Đức Văn** (司馬德文) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Tấn và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại Nhà Tấn trong
**Chiến tranh Tấn-Ngô 279-280** là cuộc chiến cuối cùng thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Vua Tây Tấn là Tư Mã Viêm phát động chiến tranh và nhanh chóng tiêu diệt nước Đông
**Tấn Mục Đế** () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là **Tư Mã Đam** (司馬聃), tên tự **Bành Tử** (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là
**Ngụy Thư** (chữ Hán: 魏舒, 209 – 290), tự **Dương Nguyên**, người huyện Phiền, quận Nhiệm Thành, quan viên cuối đời Tào Ngụy thời Tam Quốc, đầu đời Tây Tấn. ## Sự nghiệp Thư sớm
**Tam Tần** () được dùng để đề cập đến ba trong số Mười tám nước hình thành từ các bộ phận của đế quốc Tần sau sự sụp đổ của nhà Tần vào năm 206
**Tấn Minh Đế** (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là **Tư Mã Thiệu** (司馬紹), tên tự **Đạo Kỳ** (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông
**Tấn Khang Đế** () (322 – 17 tháng 11 năm 344), tên thật là **Tư Mã Nhạc** (司馬岳), tên tự **Thế Đồng** (世同), là vị Hoàng đế thứ 4 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Giản Văn Đế** () (320 – 12 tháng 12 năm 372), tên thật là **Tư Mã Dục** (司馬昱), tên tự **Đạo Vạn** (道萬), là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Tấn, và
**Tấn Ai Đế** () (341 – 30 tháng 3 năm 365), tên thật là **Tư Mã Phi** (司馬丕), tên tự **Thiên Linh** (千齡), là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Phế Đế** (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là **Tư Mã Dịch** (司馬奕), tên tự **Diên Linh** (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là
**Mạnh Sưởng** (chữ Hán: 孟昶, ? – 22 tháng 6, 410), người huyện An Khâu, quận Bình Xương, là tướng cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sưởng là hậu
**Vương Nghiệp** () là quan viên Tào Ngụy và Tây Tấn thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Nghiệp quê ở quận Vũ Lăng, Kinh Châu. Tổ tiên có khả
**Lưu Thực** (chữ Hán: 刘寔, 220 – 310), là quan viên, học giả nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Thực tự Tử Chân, người huyện Cao Đường, quận Bình Nguyên
**Vương Quán** (; ? - ?) là thừa tướng đầu tiên của nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Dưới thời Tần vương Chính, Vương Quán thăng chức từ Ngự sử đại
Combo 2 Cuốn Văn Học Xả Phiền Muộn Vui Vẻ Không Quạu Nha - Tản Văn Cuộc Sống Đếch Giống Cuộc Đời Cuộc Sống Đếch Giống Cuộc Đời Sau sự thành công ngoài sức tưởng
Combo 2 Cuốn Văn Học Xả Phiền Muộn Vui Vẻ Không Quạu Nha - Tản Văn Cuộc Sống Đếch Giống Cuộc Đời Cuộc Sống Đếch Giống Cuộc Đời Sau sự thành công ngoài sức tưởng
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến