✨Ngụy Thư (Tây Tấn)

Ngụy Thư (Tây Tấn)

Ngụy Thư (chữ Hán: 魏舒, 209 – 290), tự Dương Nguyên, người huyện Phiền, quận Nhiệm Thành, quan viên cuối đời Tào Ngụy thời Tam Quốc, đầu đời Tây Tấn.

Sự nghiệp

Thư sớm mồ côi, được nhà họ Ninh bên ngoại nuôi nấng; đến khi trưởng thành được chú là Ngụy Hành sai giữ cối xay nước; tính ưa cưỡi ngựa bắn tên, khoác áo da, vào nơi núi đầm, lấy câu cá, săn bắn làm sanh kế. Thư mình dài 8 thước 2 tấc, dung mạo thanh tú, hình thể to lớn, có thể uống hơn một thạch rượu, nhưng không được hương thân, tông tộc đánh giá cao, chỉ có người Thái Nguyên là Vương Nghệ nói rằng: “Anh về sau sẽ làm đến đài phụ, nhưng hiện nay chưa thể giúp vợ con thoát khỏi cơ hàn, tôi nên giúp đỡ anh.”

Thư ngoài 40 tuổi, vượt qua cuộc sát hạch Hiếu liêm, được trừ chức Thằng Trì trưởng, rồi thăng làm Tuấn Nghi lệnh, sau đó vào triều làm Thượng thư lang. Khi ấy triều đình muốn sa thải bớt quan Lang, nếu không phải kỳ tài thì chịu bãi chức. Thư nhận mình không phải kỳ tài, lập tức thu xếp hành trang bỏ về, khiến đồng liêu còn chưa nói được lời nào thanh cao, đều cảm thấy xấu hổ, nên được người đời khen ngợi.

Thư dần được thăng làm Trưởng sử cho Hậu tướng quân Chung Dục, sau đó chuyển làm tham quân cho tướng quốc Tư Mã Chiêu, được phong Kịch Dương tử. Trong những việc vụn vặt của triều đình và tướng phủ, thì không thấy ai hơn ai, đến khi gặp việc lớn của nước nhà, mọi người không thể quyết đoán, thì mới thấy Thư thong thả trù tính, luôn đưa ra được lời bàn xuất chúng. Tư Mã Chiêu rất xem trọng Thư, nhiều lần sau khi bãi triều, đưa mắt nhìn ông mà nói: “Ngụy Thư có dung mạo đường đường, thật là lãnh tụ của mọi người.”

Thư được thăng làm Nghi Dương, Huỳnh Dương 2 quận thái thú, rất có tiếng thanh liêm. Được chinh bái làm Tán kỵ thường thị, rồi ra làm Ký Châu thứ sử, ở châu 3 năm, được khen là giản dị, nhân ái. Lại vào triều làm Thị trung, Tấn Vũ đế cho rằng Thư thanh liêm, riêng ban trăm xúc lụa. Được thăng làm thượng thư. Thư cưới vợ 3 lần đều đã mất, năm ấy tự dâng biểu xin về bản quận để chôn cất, có chiếu ban cho 1 khoảnh đất chôn cất, 50 vạn tiền.

Đầu niên hiệu Thái Khang (280 – 289), được bái làm Hữu bộc xạ, Thư cùng bọn Vệ Quán, Sơn Đào, Trương Hoa cho rằng nhà Tấn đã thống nhất Tam Quốc, nên theo điển lễ xưa, tiến hành Phong thiền ở Thái Sơn, nhiều lần trình bày, Vũ đế khiêm nhường từ chối. Vũ đế lấy Thư làm Tả bộc xạ, lãnh Lại bộ. Sau đó được gia Hữu quang lộc đại phu, Nghi đồng tam tư.

Khi Sơn Đào mất, triều đình lấy Thư lãnh Tư đồ, ít lâu sau cho nhận chức. Thư lấy cớ tuổi cao, nhiều lần xưng bệnh, xin rời chức. Trong thời gian ấy Thư được tạm khởi dùng làm thự Duyện Châu trung chánh, rồi lại xưng bệnh. Thư nhân có điềm gở để xin rời chức, Vũ đế không nghe. Sau đó Thư về nhà từ buổi chầu đầu năm, dâng biểu gởi trả ấn thụ. Vũ đế tự tay làm chiếu khuyên nhủ, nhưng Thư kiên trì xin nghỉ, bèn hạ chiếu cho ông được giữ địa vị của tam tư, bổng lộc như trước, có ghế ngồi và gậy chống nhưng không phải vào triều, ban trăm vạn tiền, các thứ giường màn chiếu đệm, lấy 4 xá nhân, 10 quan kỵ phục vụ ông, còn ban xe 4 ngựa, giá đỗ xe đặt trước cổng.

Hậu sự

Năm Thái Hi đầu tiên (290), mất, hưởng thọ 82 tuổi. Vũ đế rất thương tiếc, phúng phụ ưu hậu, đặt thụy là Khang.

Con trai duy nhất là Ngụy Hỗn, tự Duyên Quảng, có tiếng là thanh liêm nhân ái, làm đến Thái tử xá nhân, hưởng dương 27 tuổi, mất trước Thư. Vũ đế lo Thư ở nhà một mình buồn rầu, nên ban cho cỗ xe bò có cửa sổ màn thưa, trang trí gương đồng, để ông đi chơi thư thái. Triều đình lấy cháu ngành thứ là Ngụy Dung kế tự; Dung cũng mất sớm, nên lấy cháu họ xa là Ngụy Hoảng kế tự.

Tính cách

Thư tính trì độn chất phác, không được hương thân xem trọng. Chú là Ngụy Hành – làm đến Lại bộ lang, bấy giờ có danh vọng – cũng cho rằng như thế, luôn than rằng: “Nếu Thư có thể làm được huyện trưởng của mấy trăm hộ, thì ta mãn nguyện rồi!” Thư không lấy làm phật ý. Thư không tu dưỡng tiết tháo người thường, chẳng làm những việc giữ gìn nhân cách thanh cao, nhưng luôn khen ngợi tài năng, sở trường của người khác, không bao giờ phơi bày sở đoản của họ. Vương Nghệ luôn đỡ đần Thư những lúc thiếu thốn, ông không hề từ chối.

Khi quan Thượng kế duyện của quận sát hạch Hiếu liêm, tông tộc cho rằng Thư không có học vấn, khuyên đừng dự thi, thì còn giữ được cái danh cao sĩ. Thư không nghe, bèn quyết tâm học tập, cứ 100 ngày thì đọc xong một quyển kinh, nhờ đó mà vượt qua cuộc sát hạch.

Thư làm đến tam công, có uy trọng đức vọng, bổng lộc chia hết cho 9 họ, của nhà không dư dả. Người Trần Lưu là Chu Chấn được nhiều nơi vời gọi, thư vời gọi gởi rồi thì quan Duyện chết, người đời đặt hiệu cho Chấn là “Sát công duyện”, nên không được ai vời nữa. Thư bèn vời Chấn mà không hề nghĩ ngợi, người hiểu biết khen ông là thấu mệnh trời.

Thư làm việc đều làm trước nói sau, đã được Vũ đế chấp nhận cho nghỉ hưu, mà chưa ai biết; Tư không Vệ Quán gởi thư cho ông rằng: “Nhiều lần cùng túc hạ bàn luận việc này, ngày ngày chưa có kết quả, cứ như vẫn còn trước mắt, bất chợt đã ở phía sau.”

Con là Hỗn mất trước Thư, mọi người đều thương xót ông. Thư mỗi khi đau lòng, lui lại mà than rằng: “Ta kém Trang Sinh nhiều lắm, há lại thương xót làm tổn thương mình.” Vì thế trong tang lễ không kêu khóc.

Dật sự

Khi Thư làm tham tá cho Hậu tướng quân Chung Dục; ông ta thường cùng bộ hạ thi bắn tên, còn Thư chỉ đếm thẻ tính điểm chứ không tham gia. Về sau gặp lúc số người không đủ, Dục mới gọi Thư cùng thi. Thư nhàn nhã giương cung đặt tên, không phát nào không trúng, mọi người đều ngạc nhiên, thừa nhận không ai sánh bằng. Dục than thở rằng mình không biết Thư, có lẽ không chỉ ở tài thiện xạ mà thôi.

Dị sự

Khi Thư còn sống nhờ bên ngoại, họ Ninh xây nhà, thầy tướng trạch nói: “Nhà này sẽ có cháu ngoại quý hiển.” Bà ngoại cho rằng Thư còn nhỏ mà thông minh, ứng với lời ấy; ông nói: “Ta sẽ chứng minh nhà này quả có điềm lành như vậy.” Rất lâu sau này Thư mới dọn ra ở riêng.

Khi còn nghèo khó, Thư từng đến quận Dã Vương, vợ của chủ phòng trọ sanh nở trong đêm. Ít lâu sau Thư chợt nghe tiếng ngựa xe, rồi nghe có người hỏi: “Nam thì sao, nữ thì sao?” Có người đáp: “Nam thì chớ mừng vội, 15 tuổi ắt chết vì binh khí.” Lại hỏi: “Khách trọ là ai?” Đáp: “Là Ngụy công Thư.” 15 năm sau, Thư gặp lại chủ phòng trọ, hỏi thăm đứa bé khi xưa, ông ta đáp rằng: “Vì chặt cành dâu nên bị cây búa gây thương tích mà chết.” Thư tự ấy biết rằng mình ắt làm đến tam công.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngụy Thư** (chữ Hán: 魏舒, 209 – 290), tự **Dương Nguyên**, người huyện Phiền, quận Nhiệm Thành, quan viên cuối đời Tào Ngụy thời Tam Quốc, đầu đời Tây Tấn. ## Sự nghiệp Thư sớm
**Vương Nghiệp** () là quan viên Tào Ngụy và Tây Tấn thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Nghiệp quê ở quận Vũ Lăng, Kinh Châu. Tổ tiên có khả
**Phan Nhạc** (chữ Hán: 潘岳, 247 – 300), tên tự là **An Nhân**, đời sau quen gọi là **Phan An** (潘安), người Trung Mưu, Huỳnh Dương. Ông nổi tiếng là một nhà văn thời Tây
**Lưu Nghị** (chữ Hán: 刘毅, 216 – 285) là quan viên nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng vì dám trực diện so sánh Tấn Vũ đế với hai hôn quân
**Ngụy Thư** (chữ Hán: 魏舒; 565 TCN-509 TCN), hay **Ngụy Trà** tức **Ngụy Hiến tử** (魏献子) là vị tông chủ thứ sáu của họ Ngụy, thế gia nước Tấn thời Đông Chu trong lịch sử
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王濬; 206-285) là đại tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công góp phần tiêu diệt nước Đông Ngô, thống nhất Trung Quốc sau thời kỳ chia
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王浚; 252-314) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào loạn bát vương và trở thành lực lượng quân phiệt khi Ngũ Hồ tràn vào
**Vương Khải** (chữ Hán: 王恺, ? – ?), tự **Quân Phu**, người huyện Đàm, quận Đông Hải , quan viên, ngoại thích đời Tây Tấn. Ông từng thi giàu với Thạch Sùng và chịu thất
**Phúc Âm theo Giacôbê** hay **Tin Mừng của Giacôbê** còn được gọi là **Tin Mừng Thời thơ ấu của Giacôbê** hoặc **Thủ quyển Phúc Âm thư của Giacôbê**, là một Phúc Âm ngoại điển có
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
**Lưu Thực** (chữ Hán: 刘寔, 220 – 310), là quan viên, học giả nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Thực tự Tử Chân, người huyện Cao Đường, quận Bình Nguyên
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Sơn Tây** (, ; bính âm bưu chính: _Shansi_) là một tỉnh ở phía bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Tây là tỉnh đứng thứ mười tám về số dân, đứng thứ hai mươi
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Trận Hà Tây lần thứ hai** (chữ Hán: 河西之戰, Hán Việt: _Hà Tây chi chiến_) là trận chiến diễn ra vào thời Chiến Quốc, từ năm 366 TCN đến 330 TCN giữa nước Ngụy và
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
**Chiến tranh Đông Tấn – Hậu Tần** bùng nổ vào tháng 8 ÂL năm 416, kéo dài đến tháng 8 ÂL năm 417, quen gọi là **chiến tranh Lưu Dụ diệt Hậu Tần** (chữ Hán:
**Trận Hà Tây** (chữ Hán: 河西之戰, Hán Việt: _Hà Tây chi chiến_) là trận chiến diễn ra vào thời Chiến Quốc, từ năm 419 TCN đến 408 TCN giữa nước Ngụy và nước Tần trong
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Ngụy Diên** (chữ Hán: 魏延; 177-234), tên tự là **Văn Trường** (文長), là tướng quân nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Trong chiến dịch Bắc Phạt của Gia Cát Lượng
**Phạm Thư** (chữ Hán: 范雎, ?-255 TCN), hay **Phạm Tuy** (范睢), tự là **Thúc** (叔), là thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lúc sinh thời ông được phong đất
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Ba nhà chia Tấn** (chữ Hán: 三家分晋 _Tam gia phân Tấn_) là kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ nước Tấn – bá chủ chư hầu thời Xuân Thu
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Ngụy Trưng** (, 580 - 11 tháng 2 năm 643), biểu tự **Huyền Thành** (玄成), là một nhà chính trị và sử học thời đầu thời nhà Đường. Xuất thân ở Hà Bắc trong một
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Tào Ngụy** (曹魏) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, kinh đô ở Lạc Dương. Tào Ngụy do Tào Tháo xây dựng tiền đề nhưng con trai Tào
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Tần Tuyên Thái hậu** (chữ Hán: 秦宣太后, 348 TCN - 245 TCN), cũng gọi **Mị Thái hậu** (羋太后) hay **Tuyên Thái hậu** (宣太后), là một Thái hậu nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử
**Tiền Tần** (350-394) là một nước trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Đông Tấn (265-420). Nước này do thủ lĩnh bộ tộc Đê là Bồ Hồng sáng lập
**Thư Cừ Mục Kiền** () (? 447), hoặc **Thư Cừ Mậu Kiền** (沮渠茂虔), là một người cai trị của nước Bắc Lương vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hầu
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Tần Hiếu công** (chữ Hán: 秦孝公, sinh 381 TCN, trị vì 361 TCN-338 TCN) hay **Tần Bình vương** (秦平王), tên thật là **Doanh Cừ Lương** (嬴渠梁), là vị vua thứ 30 của nước Tần -
**Ngụy Vũ hầu** (chữ Hán: 魏武侯; trị vì: 395 TCN - 370 TCN), là vị vua thứ hai của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là
**Ngụy Câu** (Trung văn giản thể: 魏驹, phồn thể: 魏駒, bính âm: Wèi Jū), tức **Ngụy Hoàn tử** (魏桓子), là vị tông chủ thứ 9 của họ Ngụy, một trong Lục khanh nước Tấn thời
**Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần** là một chuỗi những chiến dịch quân sự vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN nhằm thống nhất lãnh thổ Trung Hoa do nước Tần thực hiện