✨Mã Long (nhà Tấn)

Mã Long (nhà Tấn)

Mã Long (chữ Hán: 马隆, ? - ?), tên tự là Hiếu Hưng, người huyện Bình Lục, quận Đông Bình, là tướng lĩnh đầu đời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc.

Khởi nghiệp

Mã Long từ nhỏ có trí dũng, ham muốn lập công danh. Năm 251, thứ sử Duyện Châu Lệnh Hồ Ngu nhà Tào Ngụy đã chết vẫn bị quyền thần Tư Mã Ý đào mộ làm tội, cả châu không ai dám nhặt thây. Mã Long đang làm Vũ lại, nói dối là môn khách của Ngu, dùng tài sản riêng để chôn cất. Sau đó ông giữ tang 3 năm, bên mộ trồng tùng bách, trọn lễ mới về, được người trong châu khen ngợi.

Mã Long được thự chức Vũ Mãnh tùng sự. Trong niên hiệu Thái Thủy (266 – 274), Tấn Vũ Đế (thay ngôi nhà Ngụy) chuẩn bị đánh Đông Ngô, hạ chiếu tuyển chọn nhân tài trí dũng, vì thế Duyện Châu tiến cử Long có tài làm tướng. Long dần thăng đến Tư mã đốc.

Bình định Hà Tây

Từ trước, Lương Châu thứ sử Dương Hân mất lòng người Khương, Long nhận xét ông ta ắt bại. Ít lâu sau Hân bị nghĩa quân giết chết, vùng Hà Tây bị cắt đứt liên hệ với triều đình, Tấn Vũ đế lo lắng mặt tây, cả triều không ai dám đi dẹp, Mã Long bước ra nhận nhiệm vụ, xin được mộ 3000 dũng sĩ cùng đi. Vua Tấn đồng ý, lấy Long làm thái thú Vũ Uy, công khanh đều can rằng Mã Long chỉ là tiểu tướng không nên giao trọng trách, nhưng Vũ Đế không nghe.

Long tuyển những người kéo được nỏ nặng 36 quân, cung nặng 4 quân; từ sớm đến trưa, chọn lấy 3500 người. Long xin tự đến Vũ Khố chọn quân cụ, rồi cùng Vũ Khố lệnh tranh cãi kịch liệt. Ngự sử trung thừa đàn hặc Long, ông nói: "Thần sẵn sàng bỏ mạng nơi chiến trường, để báo ơn đã thụ, Vũ Khố lệnh lại đem quân cụ hư hỏng thời Ngụy cấp cho, không thể dùng nữa, chẳng hợp với ý bệ hạ khiến thần diệt giặc vậy!" Đế nghe theo, còn cấp cho ông 3 năm quân tư.

Long vượt sông Ôn tây tiến, nghĩa quân của bọn thủ lĩnh Thốc Phát Thụ Cơ Năng có đến hàng vạn, vừa dựa vào địa hình hiểm trở ngăn trước mặt, vừa đặt mai phục chẹn phía sau. Long dựa theo Bát trận đồ, làm ra xe "thiên tương" , nơi đất rộng thì kết doanh bằng xe sừng hươu , nơi đường hẹp thì đặt mái gỗ trên nóc xe; vừa đi vừa đánh, cung giương tên đặt, buông dây lập tức có kẻ địch ngã nhào. Long lại nảy ra mưu lạ, nhân lúc nghĩa quân không đề phòng, rải nam châm ở bên đường, nghĩa quân mặc giáp sắt, đi lại khó khăn, quan quân đều mặt giáp da tê, không trở ngại gì. Đôi bên giao chiến suốt quãng đường cả ngàn dặm, nghĩa quân tử thương vài ngàn người.

Từ khi Long tiến vào Hà Tây, tin tức đứt đoạn, triều đình lo lắng, cho rằng ông đã thua mất. Sau đó Long sai sứ đến trong đêm, Vũ đế vỗ tay cả cười. Đến buổi chầu, đế nói với quần thần rằng: "Nếu theo lời các khanh, thì chẳng còn Tần, Lương nữa!" rồi hạ chiếu cho Long làm Giả tiết, Tuyên uy tướng quân, gia Xích tràng (cờ), Khúc cái (lọng), Cổ xuy (nhạc khí). Long đến Vũ Uy, các thủ lĩnh Thốt Bạt Hàn, Thả Vạn Năng soái hơn vạn hộ đến quy hàng, trước sau những người bị giết và chịu hàng phục kể đến hàng vạn. Long tiếp tục soái những người không tham gia khởi nghĩa là bọn thủ lĩnh Một Cốt Năng, giao chiến với Thốc Phát Thụ Cơ Năng, chém được ông ta, bình xong Lương Châu.

Triều đình bàn việc thưởng công cho tướng sĩ của Long, hữu tư cho rằng họ trước khi lên đường đã được ban chức tước, nay không cần ban thêm nữa. Vệ tướng quân Dương Diêu phản bác, cho rằng một chút chức tước ban đầu là để dẫn dụ tướng sĩ của Long tòng quân, sau khi lập công nhất định phải ban thưởng, còn là để giữ chữ tín cho triều đình. Tấn Vũ Đế theo lời Diêu, ban thưởng theo công trạng của tướng sĩ.

An định Lũng Hữu

Đầu niên hiệu Thái Khang (280 - 289), triều đình cho rằng quận Tây Bình hoang tàn, cần được chấn hưng, lấy Long làm Bình Lỗ hộ quân, thái thú Tây Bình, cho nắm quân bản bộ, lại cấp cho nha môn một cánh quân, sai đồn trú Tây Bình. Khi người tộc Thành Hề nhiều lần xâm phạm biên thùy, Long đến, soái quân trấn áp, họ dựa vào địa hình hiểm trở chống lại. Long lệnh cho binh sĩ đều mang theo nông cụ, ra vẻ sắp làm ruộng, người Thành Hề ngỡ quan quân không muốn đánh dẹp nữa, buông lỏng phòng bị. Long thừa cơ tấn công, phá được. Trong suốt thời gian Long nắm quyền, các dân tộc thiểu số không dám xâm phạm.

Năm 290, Long được phong Phụng Cao huyện hầu, gia thụ Đông Khương hiệu úy. Khi ấy người Phùng Dực là Lược Dương thái thú Nghiêm Thư có quan hệ thông gia với ngoại thích Dương Tuấn, ngầm tính kế thay chức của Long, chê bai ông tuổi cao lú lẫn, không nên cho ông tiếp tục cầm quân; vì thế triều đình gọi Long về, lấy Thư thay chức của ông. Gặp lúc các tộc Đê, Khương tập hợp lực lượng, trăm họ kinh hãi, triều đình sợ vùng Quan Lũng nhiễu loạn lần nữa, sai Long nhận lại chức. Sau đó Long mất khi đang ở chức, không rõ khi nào.

Mã Long hoạt động trong gần 40 năm từ thời Tam Quốc đến thời Tấn. Con ông là Mã Hàm được kế tự, cũng có tiếng kiêu dũng. Trong loạn Bát vương, Hàm được làm Ưng Dương tướng quân, theo Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh tấn công Trường Sa vương Tư Mã Nghệ, bị bộ tướng của Nghệ là Vương Hô đánh bại và giết chết.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mã Long** (chữ Hán: 马隆, ? - ?), tên tự là **Hiếu Hưng**, người huyện Bình Lục, quận Đông Bình, là tướng lĩnh đầu đời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Nhà Tân** () (9-23) là một triều đại tiếp sau nhà Tây Hán và trước nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Vị hoàng đế duy nhất của nhà Tân là Vương Mãng. ##
**Bóng ma trong nhà hát** (Le Fantôme de l'Opéra) là cuốn tiểu thuyết của Gaston Leroux. Vốn là tiểu thuyết dài kì được in trên tờ _Le Gaulois_, từ tháng 9 năm 1909 đến tháng
**Tuân Úc** (còn có cách phiên âm Hán Việt khác là **Tuân Húc**, chữ Hán: 荀勖, bính âm: Xún Xù, ? – 289), tên tự là **Công Tằng** (公曾), người huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh
**Chu Tuấn** (chữ Hán: 周浚, ? - ?), tên tự là **Khai Lâm**, người huyện An Thành, quận Nhữ Nam , tướng lãnh đầu đời Tây Tấn, có công tham gia diệt Đông Ngô. ##
**Lưu Hoằng** (chữ Hán: 刘弘, 236 – 306), tên tự là **Hòa Quý** hay **Thúc Hòa** , người huyện Tương, Bái (quận) quốc, Duyện Châu , tướng lãnh cuối đời Tây Tấn. ## Khởi nghiệp
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
**Tư Mã Ý** (chữ Hán: 司馬懿; 179 – 7 tháng 9 năm 251), biểu tự **Trọng Đạt** (仲達), là nhà chính trị, nhà quân sự phục vụ nước Tào Ngụy thời kỳ Tam Quốc trong
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王浚; 252-314) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào loạn bát vương và trở thành lực lượng quân phiệt khi Ngũ Hồ tràn vào
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tư Mã Thượng Chi** (chữ Hán: 司馬尚之, ? - 402), tức **Tiều Trung vương** (譙忠王), tên tự là **Bá Đạo** (伯道), là đại thần, tông thất nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân
**Tư Mã Phu** (chữ Hán: 司馬孚; 180 - 3 tháng 4, 272), biểu tự **Thúc Đạt** (叔達), là một nhà chính trị, nhà quân sự sống qua đời Đông Hán, Tào Ngụy và là một
CHI TIẾT SẢN PHẨM ____________________________________________ - size 40-70kg - Kiểu dáng vô cùng thời trang, trẻ trung lắm - Chất mát mịn, thấm hút mồ hôi - Đường may tinh xảo sắc nét. - Hàng
**Tần Nhị Thế** **Hoàng đế** (chữ Hán: 秦二世; 230 TCN - 207 TCN), hay **Nhị Thế Hoàng đế** (二世皇帝), tên thật là **Hồ Hợi** (胡亥), _tính_ **Doanh** (嬴), _thị_ **Tần** (秦), là vị Hoàng đế
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Tấn Minh Đế** (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là **Tư Mã Thiệu** (司馬紹), tên tự **Đạo Kỳ** (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông
**Tư Mã Dĩnh** (chữ Hán:司马颖; 279 - 306), tên tự là **Chương Độ** (章度), là một vị tông thất nhà Tấn, một trong các chư hầu vương nhà Tây Tấn tham gia loạn bát vương
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龙, 1555 – 1624), tên tự là **Vu Điền**, người huyện Trường Viên, phủ Đại Danh, hành tỉnh Bắc Trực Lệ , là quan viên, tướng lãnh trung kỳ đời
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Palais Garnier** ( tiếng Pháp) ("Cung điện Ganier") là một nhà hát opera với 1.979 chỗ ngồi, được xây dựng từ năm 1861 đến năm 1875 cho đoàn Opera Paris. Ban đầu, nhà hát được
**Tư Mã Nguyên Hiển** (chữ Hán: 司馬元顯, 382 - 402), tức **Cối Kê Trung thế tử**, tên tự là **Lãng Quân** (朗君), là tông thất và đại thần chấp chính dưới thời Đông Tấn trong
**Tư Mã Đạo Tử** (chữ Hán: 司馬道子, 364 - 3 tháng 2 năm 403), tự là **Đạo Tử** (道子), là tông thất và đại thần dưới thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Xuất
**Tư Mã Duật** (chữ Hán: 司马遹; 278-300) biểu tự **Hi Tổ** (熙祖), tiểu tự **Sa Môn** (沙门) là tông thất nhà Tấn, hoàng thái tử của Tấn Huệ đế, vua thứ hai của nhà Tấn
**Tư Mã Chiêu** (chữ Hán: 司馬昭; 211 – 6 tháng 9, 265), biểu tự **Tử Thượng** (子上), là một chính trị gia, quân sự gia, một quyền thần trứ danh thời kì cuối của nhà
**Tư Mã Luân** (chữ Hán: 司馬倫; 249 - 301, trị vì:3/2-30/5/301) làm vua 3 tháng (năm 301), tự là **Tử Di** (子彝) là vị vua thứ ba của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Du** (chữ Hán: 王愉, ? – 30/3/404), tự **Mậu Hòa** (茂和), tiểu tự **Câu** (驹), người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên cuối đời Đông Tấn. ## Sự nghiệp Du là hậu duệ
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Chiến tranh Tấn-Ngô 279-280** là cuộc chiến cuối cùng thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Vua Tây Tấn là Tư Mã Viêm phát động chiến tranh và nhanh chóng tiêu diệt nước Đông
**Tư Mã Nghệ** (; 277 - 19 tháng 3 năm 304), tự _Sĩ Độ_ (士度) hoặc _Sĩ Khánh_ (仕庆), là một hoàng tử nhà Tấn, và từng giữ chức nhiếp chính trong thời gian ngắn
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王濬; 206-285) là đại tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công góp phần tiêu diệt nước Đông Ngô, thống nhất Trung Quốc sau thời kỳ chia
**Tư Mã Sở Chi** (, 390 – 464) là đại tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Tư Mã Sở Chi có tên tự là Đức
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龍; ?-1789) là một võ tướng của triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, chiếm được các trại Cố Bốc Tế (固卜濟), Mã Nhĩ Địch Khắc (瑪爾迪克). Sau
**Tấn Hiếu Vũ Đế** () (362–396), tên thật là **Tư Mã Diệu** (司馬曜), tên tự **Xương Minh** (昌明), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 14 của
**Tấn Phế Đế** (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là **Tư Mã Dịch** (司馬奕), tên tự **Diên Linh** (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là
**Mã Lân** (chữ Hán: 马璘, 721 – 777), tự **Nhân Kiệt**, người Phù Phong, Kỳ Châu , tướng lãnh trung kỳ đời Đường. ## Thân thế Lân sinh ra trong gia đình nhiều đời làm
**Tấn Giản Văn Đế** () (320 – 12 tháng 12 năm 372), tên thật là **Tư Mã Dục** (司馬昱), tên tự **Đạo Vạn** (道萬), là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Tấn, và
**Tư Mã Quýnh** (chữ Hán: 司马冏, ?-302), tên tự là **Cảnh Trị** (景治) là một thân vương của nhà Tấn. Ông là một trong những Vương gia nhà Tấn gây ra Loạn bát vương, dẫn
**Ngụy Thư** (chữ Hán: 魏舒, 209 – 290), tự **Dương Nguyên**, người huyện Phiền, quận Nhiệm Thành, quan viên cuối đời Tào Ngụy thời Tam Quốc, đầu đời Tây Tấn. ## Sự nghiệp Thư sớm
**Tư Mã Hưu Chi** (chữ Hán: 司馬休之, ? - 417), tự **Quý Dự**, người huyện Ôn, Hà Nội , nhân vật chính trị cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
**Tư Mã Mậu Anh** (chữ Hán: 司馬茂英, 393? – 439) là Hải Diêm công chúa (海鹽公主) của nhà Tấn, và là hoàng hậu của nhà Lưu Tống Thiếu Đế Lưu Nghĩa Phù trong lịch sử
**Mã Long** (; sinh ngày 20 tháng 10 năm 1988) là một vận động viên bóng bàn nam người Trung Quốc. Anh đã từng giữ thứ hạng 1 thế giới của Liên đoàn bóng bàn
**Long Nha Cư Độn** (zh. 龍牙居遁 _lóngyō jūxún_; ja. _ryūge koton_; 834/835-920/923) là Thiền sư Trung Quốc đời Đường, môn đệ đắc pháp của Thiền Sư Động Sơn Lương Giới - Khai tổ Tông Tào
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều