Năm ngón tay của Tây Tạng (, Tây Tạng đích ngũ chỉ) là một chính sách đối ngoại của Trung Quốc được đưa ra bởi Mao Trạch Đông coi Tây Tạng là lòng bàn tay phải của Trung Quốc với năm ngón tay là: Ladakh, Nepal, Sikkim, Bhutan và Arunachal Pradesh, và do đó Trung Quốc phải có trách nhiệm "giải phóng" các vùng này. Chính sách này chưa bao giờ được thảo luận trong các tuyên bố công khai chính thức của Trung Quốc, nhưng những lo ngại chính trị bên ngoài đã được đưa ra dẫn đến khả năng nhìn nhận sự tồn tại hoặc hồi sinh chính sách này. Một bài báo đăng trên tạp chí cơ quan ngôn luận lâm thời của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác minh sự tồn tại của chính sách này như hệ quả sau cuộc tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ vào năm 2017.
Cơ sở
Đế quốc Trung Quốc tuyên bố quyền bá chủ đối với Nepal, Sikkim và Bhutan như một phần mở rộng của tuyên bố chủ quyền đối với Tây Tạng. Những tuyên bố này đã được khẳng định bởi một quan chức nhà Thanh ở Tây Tạng vào năm 1908, người đã viết cho chính quyền Nepal rằng Nepal và Tây Tạng, "đoàn kết như anh em dưới sự bảo trợ của Trung Quốc, nên làm việc hài hòa vì lợi ích chung." Ông đề xuất "sự pha trộn của năm màu sắc" đại diện cho Trung Quốc, Tây Tạng, Nepal, Sikkim và Bhutan như một phần trong chương trình của mình nhằm khẳng định yêu sách của Trung Quốc trước sự phản đối của Anh. Năm 1939, Chủ tịch sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Mao Trạch Đông coi Bhutan và Nepal là các quốc gia chư hầu của Trung Quốc.
Nguồn gốc
Chính sách "Năm ngón tay của Tây Tạng" đã được cho là phổ biến trong các bài phát biểu của Mao trong những năm 1940, nhưng chưa bao giờ được thảo luận trong các tuyên bố chính thức của công chúng Trung Quốc. Chính sách này coi Tây Tạng là lòng bàn tay phải của Trung Quốc, với Ladakh, Nepal, Sikkim, Bhutan và Cơ quan Biên giới Đông Bắc (nay được gọi là Arunachal Pradesh) là năm ngón tay của nó. Năm 1954, các sĩ quan quân đội Trung Quốc ở Tây Tạng tuyên bố rằng họ sẽ "giải phóng Sikkim, Bhutan, Ladakh và Cơ quan Biên giới Đông Bắc, những nơi đang bị đế quốc Ấn Độ chiếm đóng một cách sai trái." Cùng năm đó, chính phủ Trung Quốc xuất bản cuốn sách có tên "Lược sử Trung Quốc hiện đại" dùng dạy cho học sinh, sinh viên, trong đó có một bản đồ thể hiện các vùng lãnh thổ bị cho là bị "các thế lực đế quốc" chiếm đoạt từ năm 1840 đến năm 1919, gọi chúng là "các phần lãnh thổ của Trung Quốc phải được đòi lại." Bản đồ này bao gồm Ladakh, Nepal, Bhutan, Sikkim và toàn bộ Đông Bắc Ấn Độ.
Chính sách trong thế kỷ 21
Chính sách, vốn chưa bao giờ được thảo luận trong các tuyên bố công khai của Trung Quốc, Tuy nhiên, đã có những lo ngại được bày tỏ về việc liên quan đến sự hồi sinh của nó. Sau bế tắc biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 2017 tại Doklam, một bài báo đăng trên tờ Quần chúng (tạp chí ngôn luận của thường vụ tỉnh ủy Giang Tô của ĐCSTQ) nhắc lại "năm ngón tay". Bài báo được viết bởi nhà nghiên cứu Đại học Nam Kinh Lưu Lập Đào, cáo buộc sự hỗ trợ bí mật của Ấn Độ đối với phong trào độc lập của Tây Tạng bắt nguồn từ tầm quan trọng về văn hóa và kinh tế của Tây Tạng trong khu vực và mặc dù thực tế là Ấn Độ đã "lấy đi năm ngón tay", họ không thể kiểm soát hoàn toàn khu vực mà không có "lòng bàn tay" vì "lực hướng tâm" của văn hóa Tây Tạng trên "năm ngón tay". Bài báo nói thêm rằng khi các khoản đầu tư, thương mại và quan hệ kinh tế của Trung Quốc với các khu vực này tăng lên, ảnh hưởng của Trung Quốc ở các khu vực này sẽ vượt qua Ấn Độ và sẽ loại bỏ họ ở một mức độ "lớn".
Lobsang Sangay, lãnh đạo của Chính phủ lưu vong Tây Tạng đã liên kết chính sách này với tình trạng bế tắc ở Doklam. Nó cũng đã được trích dẫn là lý do đằng sau những đụng độ giữa Trung Quốc và Ấn Độ năm 2020 bởi Sangay, Adhir Ranjan Chowdhury (lãnh đạo của Đảng Quốc Đại Ấn Độ trong Lok Sabha), Seshadri Chari (cựu trưởng ngoại giao của Đảng Bharatiya Janata), và MM Khajuria (cựu Tổng cục trưởng Cảnh sát của bang Jammu và Kashmir trước đây của Ấn Độ).
Theo nhà bình luận Saurav Jha, chính sách "năm ngón tay" nảy sinh từ yếu tố địa lý lịch sử của dãy Himalaya cho phép tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hai chiều giữa Tây Tạng và các khu vực phía nam Tây Tạng. Điều này dẫn đến căng thẳng giữa các cường quốc đối với Himalaya vốn "cuối cùng được làm dịu đi do sự cân bằng về khả năng quân sự," và điều này cũng là lý do đằng sau chính của sự tranh chấp biên giới Trung-Ấn kéo dài.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Năm ngón tay của Tây Tạng** (, _Tây Tạng đích ngũ chỉ_) là một chính sách đối ngoại của Trung Quốc được đưa ra bởi Mao Trạch Đông coi Tây Tạng là lòng bàn tay
**Nhóm ngôn ngữ Tani** (tên thay thế là **nhóm ngôn ngữ** **Miri**, _Adi-Galo-Mishing-Nishing-Tagin_ (Bradley 1997), hay _Aborifer-Miri-Dafla_ (Matisoff 2003)), là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng được nói chủ yếu ở Arunachal Pradesh,
Cuộc sáp nhập ** Tây Tạng của Trung Quốc**, còn được gọi theo sử học Trung Quốc là **Giải phóng Hòa bình Tây Tạng** (, ) là chỉ việc Chính phủ nước Cộng hòa Nhân
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
nhỏ|262x262px|Người Tạng **Người Tạng** hay **người Tây Tạng** (; ; Hán Việt: Tạng tộc) là một dân tộc bản địa tại Tây Tạng, vùng đất mà ngày nay hầu hết thuộc chủ quyền của Cộng
**Hán hóa Tây Tạng** là một cụm từ được sử dụng bởi các nhà phê bình về sự cai trị của Trung Quốc ở Tây Tạng để chỉ sự đồng hoá văn hoá xảy ra
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
**Nhóm ngôn ngữ Tạng** () là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng, bắt nguồn từ tiếng Tạng cổ, hiện diện trên một vùng rộng lớn giáp với tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cao nguyên Thanh
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Tử thư** (zh. 死書, bo. _bardo thodol_ བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་, nguyên nghĩa là "Giải thoát qua âm thanh trong Trung hữu", en. _liberation through hearing in the Bardo_) là một tàng lục (bo. _gter ma_ གཏེར་མ་), được
**Vân Nam** () là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Tuyên Quang của Việt Nam.
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Khu tự trị Tây Tạng** (tiếng Tạng: བོད་རང་སྐྱོང་ལྗོངས་; Wylie: Bod-rang-skyong-ljongs, phiên âm: [pʰøː˩˧˨ ʐaŋ˩˧.coŋ˥˩ t͡ɕoŋ˩˧˨]; tiếng Trung giản thể: 西藏自治区; tiếng Trung phồn thể: 西藏自治區; bính âm: Xīzàng Zìzhìqū) là một đơn vị hành chính
**Ngữ hệ Nam Á** () là một ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á lục địa, phân bố rải rác ở Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và miền nam Trung Quốc, được nói bởi khoảng 117
phải|nhỏ|314x314px|Một [[Tì-kheo|nhà sư Trung Á đang giảng cho một nhà sư Trung Hoa. Hang động Bezeklik, thế kỷ 9–10; mặc dù Albert von Le Coq (1913) cho rằng nhà sư tóc đỏ, mắt xanh là
**Nhóm ngôn ngữ Khương**, trước đây gọi là **Nhóm ngôn ngữ Dzorgai**, là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng. Những ngôn ngữ này hiện diện ở miền đông nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân
**Các ngôn ngữ Đông Á** thuộc về một số ngữ hệ khác biệt với các đặc tính chung hình thành từ quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Trong vùng ngôn ngữ học Đông
**Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin** (còn được gọi là **ngữ quần Mizo**, **ngữ quần** **Kukish** hoặc **ngữ quần Tạng-Miến Trung-Nam**) là một nhánh của 50 ngôn ngữ Hán-Tạng được nói ở đông bắc Ấn Độ, miền
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Ngữ tộc Tạng-Miến** là một thuật ngữ để chỉ những ngôn ngữ phi Hán thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, với hơn 400 ngôn ngữ được nói tại vùng cao Đông Nam Á cũng như những phần
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** (Tiếng Trung Quốc: **西藏自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xī Zàng Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, Từ Hán - Việt: _Tây Tạng tự trị Khu Nhân
**Một Tạng Ngoa Bàng** (; ? - 1061) là tướng lĩnh, ngoại thích, quyền thần thời Tây Hạ Nghị Tông đầu Tây Hạ trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Một Tạng Ngoa Bàng
**Nam Á** (còn gọi là **tiểu lục địa Ấn Độ**) là thuật ngữ dùng để chỉ khu vực miền nam của châu Á, gồm các quốc gia hạ Himalaya và lân cận. Về mặt địa
**Bò Tây Tạng** (danh pháp khoa học: **_Bos grunniens_**) là một loài bò lông dài được tìm thấy trong suốt khu vực Himalaya ở miền nam Trung Á, bao gồm cao nguyên Thanh-Tạng và xa
**Hiệp định giữa chính phủ nhân dân trung ương và chính quyền địa phương Tây Tạng về cách giải phóng hoà bình Tây Tạng**, gọi tắt bằng **Hiệp định 17 điều**, là văn kiện mà
**Tam tạng** (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng
**Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009** là một loạt các cuộc bạo động kéo dài nhiều ngày, bắt đầu nổ ra vào ngày 5 tháng 7 năm 2009 tại Ürümqi, thủ phủ của
**Chùa Tây Tạng** (西藏寺) là một ngôi chùa Việt Nam, hiện tọa lạc tại 46B Thích Quảng Đức, phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Ngôi chùa này thuộc hệ phái
Đây là một trong bốn loại hình ngôn ngữ quan trọng của thế giới: loại hình **ngôn ngữ đơn lập** hay còn gọi là **ngôn ngữ cách thể**, loại hình ngôn ngữ chắp dính (ngôn
thumb|Ủy ban Mông Tạng nhỏ|Trung tâm văn hóa Mông Tạng tại Đài Bắc **Ủy ban Mông Cổ và Tây Tạng** (, Hán Việt: _Mông Tạng ủy viên hội_) là một cơ quan ngang bộ trực
thumb|Một ngôi làng Nạp Tây gần Lệ Giang **Người Nạp Tây** (Giản thể: 纳西族, Phồn thể: 納西族, Bính âm: Nàxī zú, Hán Việt: Nạp Tây tộc) hay **người Naxi** hoặc **người Nakhi** (theo tên tự
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Nội tạng động vật** hay còn gọi là **phủ tạng** đề cập đến các cơ quan nội tạng bên trong và bộ phận ruột của một con vật bị xẻ thịt không bao gồm thịt
Có khoảng hai mươi **ngôn ngữ tại Bhutan**, tất cả đều là những ngôn ngữ Tạng-Miến, trừ tiếng Nepal, một ngôn ngữ Indo-Arya. Tiếng Dzongkha, ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ duy nhất có
Dưới đây là danh sách các nhân vật trong bộ tiểu thuyết cổ điển Trung quốc Tây Du Ký, bao gồm cả tên những nhân vật chỉ được nhắc tới. ## Các nhân vật chính
**_Tây Du Ký_** (), là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực
**Tây Bengal** (, , nghĩa là "tây bộ Bengal") là một bang tại khu vực đông bộ của Ấn Độ. Đây là bang đông dân thứ tư toàn quốc, với trên 91 triệu dân theo
**Tiếng Nạp Tây** hay **tiếng Naxi** (tên tự gọi ), cũng gọi là _Nakhi, Nasi, Lomi, Moso, Mo-su, Ma Thoa_, là một ngôn ngữ Hán-Tạng được nói bởi hơn 310.000 người sinh sống tại hoặc
**Nam Chiếu quốc** (chữ Hán: 南詔國), cũng gọi **Đại Lễ** (大禮), người Thổ Phồn gọi **ljang yul** (tiếng Tạng: ), là một vương quốc của người Bạch, người Miêu và người Di (người Lô Lô),
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:%E4%B8%AD%E5%8D%97%E6%B5%B702.jpg|nhỏ|Sơ đồ Trung Nam Hải. Ở dưới cùng sơ đồ là Cổng Tân Hoa. Hòn đảo ở trên hồ trước là [[Zhongnanhai#Yingtai Island|Đài Doanh. Ở phía đông bắc Đài Doanh là Điện Cần Chính trong
**Leonor của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Castilla_; tiếng Anh: _Eleanor of Castilla_; năm 1241 – 28 tháng 11 năm 1290) là Vương hậu nước Anh từ năm 1272 đến năm 1290, và
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
nhỏ|Tấm biển tại [[Ung Hòa cung tại Bắc Kinh, Trung Quốc, từ phải sang trái viết bằng tiếng Mãn, tiếng Hán, tiếng Tạng, tiếng Mông Cổ.]] nhỏ|phải|Biểu trưng của chính quyền Liên bang [[Thụy Sĩ,
Trang này dành cho tin tức về các sự kiện xảy ra được báo chí thông tin trong **tháng 9 năm 2020**. Tháng này, sẽ bắt đầu vào thứ ba, và kết thúc vào thứ
**Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam** là một thiết chế văn hoá được xây dựng từ năm 1960, nằm giữa trung tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô
thumb|Báo cáo hàng năm của Ủy ban Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế đưa ra đánh giá toàn diện về các hoạt động của Ủy ban—những phát hiện, khuyến nghị và thành