✨Tây du ký
Tây Du Ký (), là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của tác giả Ngô Thừa Ân. Tiểu thuyết thuật lại chuyến đi đến Ấn Độ của nhà sư Huyền Trang (Đường Tam Tạng) đi lấy kinh.
Nội dung
Hình từ thế kỷ XVIII minh họa một cảnh từ Tây Du Ký Trong tiểu thuyết, Trần Huyền Trang (陳玄奘) được Quan Âm Bồ Tát bảo đến Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh Phật giáo mang về Trung Quốc. Theo ông là 4 đệ tử - một khỉ đá tên Tôn Ngộ Không (孫悟空), một yêu quái nửa người nửa lợn tên Trư Ngộ Năng (豬悟能) và một thủy quái tên Sa Ngộ Tĩnh (沙悟淨) - họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Con ngựa Huyền Trang cưỡi cũng là một hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã).
Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông, xưng vương ở Hoa Quả Sơn, tìm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong Ngũ Hành Sơn 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh.
Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối mặt, gồm yêu quái (bao gồm cả đồ đệ của các vị Tiên, Phật lẫn tự tu mà thành), tai nạn do sai lầm (VD: uống nhầm nước sông Mẫu tử),... Một số nam yêu quái muốn ăn thịt Huyền Trang để trường sinh, một số nữ yêu quái muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành những mỹ nhân. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa,... Các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện ra một nguồn gốc khác của Tôn Ngộ Không từ những bức bích họa có niên đại hơn 1.000 năm, tìm thấy trong Động Thiên Phật, cách huyện Tây An, tỉnh Cam Túc khoảng 90 km. Các bức hình có cảnh một vị hòa thượng và "Hầu hình nhân" (người hình khỉ) đang trang nghiêm chắp tay hành lễ, hướng mặt về phía Phật Bà Quan Âm trên đài Kim Cương bảo thạch. Theo giáo sư Hà Văn Kiệt, trưởng nhóm nghiên cứu, Tôn Ngộ Không thực chất là một người đàn ông có thật, tên là Thạch Bàn Đà, quê tại thành Tiên Dương, người dân tộc Hồ. Ông có ngoại hình xấu xí, thô kệch, kỳ quái, nên có biệt danh là "Hầu hình nhân". Tuy nhiên, người dân trong vùng ai cũng yêu quý Thạch Bàn Đà, bởi ông tính tình thực thà, thông minh nhanh nhẹn, võ nghệ cao cường, thường hay cứu mạng dân lành, diệt trừ thú dữ. Vào năm 629, khi Đường Tăng dừng chân tại vùng Tiên Dương, biết tin Huyền Trang đang giảng kinh, người đàn ông xấu xí này liền tìm tới nghe, rồi bị cảm hóa, thấm dần tư tưởng nhà Phật. Ông một người một ngựa, tự nguyện tháp tùng Đường Tăng tới Tây Thiên, cùng sư phụ vượt mọi gian nan, hiểm trở trên đường lấy kinh.
- Đường Tam Tạng, họ Trần tên Huyền Trang, lúc nhỏ tên Giang Lưu, kiếp trước là Kim Thiền Tử, đệ tử của Phật Tổ Như Lai, do ngủ gật trong giờ giảng kinh và vô tình đá đổ một hạt gạo nên bị phạt đày xuống trần gian tu 10 kiếp và phải trải qua 81 kiếp nạn mới được trở lại Linh Sơn.
- Trư Bát Giới, còn được gọi là Trư Ngộ Năng do Quan Thế Âm Bồ Tát đặt cho, nghĩa là: "con lợn (tái sinh) nhận ra, ngộ ra khả năng của mình" để ám chỉ việc Bát Giới luôn tự đánh giá mình quá cao mà quên mất mình mang một hình hài kinh khủng.
- Sa Tăng, còn được Bồ Tát đặt cho cái tên Sa Ngộ Tịnh, có nghĩa là giác ngộ được tâm thanh tịnh trong đạo Phật. Có tài liệu phiên âm tên này là Sa Ngộ Tĩnh, nhưng so với chữ Hán trong nguyên bản (沙悟淨) thì chữ 淨 chỉ có một âm đọc là "tịnh", như trong "thanh tịnh" (清淨). Tên này luôn được Đường Tăng gọi. Còn danh tự Sa Tăng là do Tôn Ngộ Không đặt khi ông chịu phò giá Đường Tăng, vì thấy cách chào của Sa Tăng giống hoà thượng. Ngộ Không và Bát Giới luôn gọi Sa Tăng là "Sa sư đệ" hoặc "tam sư đệ" mặc dù nếu tính đúng thì Ngộ Tịnh là đệ tử thứ tư của Đường tăng.
- Bạch Long Mã (chữ Hán: 白龍馬) hay Tiểu Bạch Long là con của Tây Hải Long Vương (em Đông Hải Long Vương) là đồ đệ thứ hai của Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh. Được Đường Tăng thu phục ngay sau khi thu phục Ngộ Không nhưng cả ba đồ đệ khác của Đường Tăng đều gọi Bát Giới là "nhị sư huynh/đệ" và gọi Sa Tăng là "tam sư đệ".
Image:Xyj-tang seng.jpg|Đường Tam Tạng và Bạch Mã Image:Xyj-sha seng.jpg|Sa Tăng Image:Xyj-tang taizong.jpg|Đường Thái Tông Image:Xyj-zhu.jpg|Trư Bát Giới - Thái Thượng Lão Quân
- Ngọc Hoàng Thượng đế
- Tây Vương Mẫu
- Xích Cước Tiên
- Thái Bạch Kim Tinh
- Na Tra Tam Thái Tử
- Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh
- Bát Tiên
- Hằng Nga
- Thổ Địa
- Phật tổ Như Lai
- Phật A Di Đà
- Phật Di-lặc
- Quán Thế Âm Bồ Tát
- Địa Tạng Bồ Tát
- Đại Thế Chí Bồ Tát
- Văn Thù Bồ Tát
- Phổ Hiền Bồ Tát
- Các vị La Hán
Image:Xyj-ru lai.jpg|Phật tổ Như Lai Image:Xyj guanshiyin.jpg|Quán Thế Âm và Hồng Hài Nhi
Phản diện
Dưới đây là một số yêu quái tiêu biểu trong Tây Du Ký:
- Bạch Cốt Tinh - là một bộ xương tu luyện thành tinh, 3 lần lừa Đường Tăng nhưng đều thất bại. Bị Tôn Ngộ Không đánh chết sau lần thứ 3
- Ngưu Ma Vương - Bình Thiên Đại Thánh, là huynh đệ kết nghĩa của Tôn Ngộ Không, bản thể là một con trâu thành tinh. Sức mạnh ngang với Tôn Ngộ Không.
- Hồng Hài Nhi - Thánh Anh Đại Vương, là con trai của Ngưu Ma Vương và Thiết Phiến Công Chúa, có tài phun lửa Tam Muội Chân Hỏa, đã từng thiêu Tôn Ngộ Không trọng thương, và sau đó bị Quan Âm Bồ Tát thu phục làm Thiện Tài Đồng Tử.
- Kim Quan Trăm Mắt - có 7 vị sư muội ở động Bàn Tơ, là yêu quái rết nhiều mắt. Ở Hoàng Hoa Quán, dùng trà táo đỏ để đầu độc Đường Tăng.
- Con sư tử của Văn Thù Bồ Tát (Sư Vương) và Con voi của Phổ Hiền Bồ Tát (Tượng Vương) lẻn xuống trần gian kết huynh đệ với Đại bàng Kim Sí Điểu ở Sư Đà Lĩnh (500 năm trước có kết giao với Tề Thiên, xưng là Sư Đà Vương).
- Cửu Đầu Trùng - một loại trùng 9 đầu, có cánh, là phò mã đầm Bích Ba, chồng của Vạn Thánh Công Chúa, sai hai con ngư yêu là Bôn Ba Nhi Bá và Bá Ba Nhi Bôn ăn trộm ngọc Xá Lợi để làm lễ vật.
- Hoàng Bào Quái - là Khuê Mộc Lang trong Nhị Thập Bát Tú, xuống trần xưng vương động Ba Tuyệt, nước Bảo Tượng, bắt cóc công chúa Bách Hoa Tu làm vợ.
- Hoàng Mi Lão Phật - nguyên là tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc chụp vàng của Phật Di Lặc. Lập chùa Lôi Âm giả để lừa Đường tăng vào chùa bái lạy thì bắt giữ.
- Kim Giác và Ngân Giác - là 2 Đồng tử của Thái Thượng Lão Quân, trộm các bảo bối Hồng Hồ Lô, Tịnh Bình, Dây Thừng Vàng, Thất Tình Kiếm, quạt Ba Tiêu xuống xưng vương tại núi Bình Đỉnh, động Liên Hoa.
- Hoàng Phong Quái - là con chuột có phép Tam Muội Chân Phong, từng ăn trộm dầu lưu ly của Phật Tổ, đã làm Tôn Ngộ Không bị hỏng mắt, sau bị Linh Cát Bồ Tát thu phục.
- Thiết Phiến Công Chúa - là vợ chính của Ngưu Ma Vương và là mẹ ruột của Hồng Hài Nhi.
Bảo bối
Phi Long Trượng
Là một trong 2 bảo bối Phật Tổ Như Lai trao lại cho Linh Cát Bồ Tát, món này dùng để trị Hoàng Phong Quái.
Định Phong Đơn
Là một trong 2 bảo bối Phật Tổ Như Lai trao lại cho Linh Cát Bồ Tát, món này dùng để trợ giúp Tôn Ngộ Không không bị thổi bay bởi Quạt Ba Tiêu.
Quạt ba tiêu
Là quạt gió tiên của Thiết Phiến công chúa còn gọi là Bà La Sát. Thái Thượng Lão Quân cũng có một cái là quạt lửa. Quạt Ba Tiêu sanh tại núi Côn Luân, từ thuở khai thiên lập địa. Quạt có thể quạt một cái thì lửa tắt, quạt hai cái thì sanh gió, quạt ba cái thì mưa xuống. Khi quạt nhằm con người bay tới năm mươi bốn ngàn dặm mới ngừng. Có thể biến to thu nhỏ. Tôn Ngộ Không đã dùng Định Phong Đơn do Linh Cát Bồ Tát ban cho để khắc chế Quạt Ba Tiêu.
Kim Cang Trát
Kim Cang Trát còn có tên Kim Cang sào. Kim Cang Trát là một chiếc vòng hộ thân của Thái Thượng Lão Quân. Có chức năng không kị ngũ hành, có thể thâu mọi bảo vật. Khi Tôn Ngộ Không đang đánh với Nhị Lang thần Dương Tiễn, Thái Thượng Lão Quân đã ném Kim Cang Trát trúng đầu của Ngộ Không làm cho con Khỉ té nhào chết giấc nên mới bị bắt. Con Thanh ngưu của Thái Thượng Lão Quân đã đánh cắp Kim Cang Trát xuống trần hóa làm yêu tinh Độc Giác Tỉ. Nó đã dùng chiếc vòng này để thâu gậy Như Ý của Ngộ Không, vũ khí của thiên binh thiên tướng, lửa của Hỏa Đức tinh quân, nước của Thủy Đức tinh quân, hột kim đơn sa của Phật. Tuy thần thông là vậy nhưng Kim Cang Trát kị quạt Ba Tiêu. Thái Thượng Lão Quân đã dùng quạt Ba Tiêu để thâu lại Kim Cang Trát.
Hồ lô Tử Kim & Bình Ngọc Tịnh
Hồ lô Tử Kim & Bình Ngọc Tịnh là hai món bảo bối được Thái Thượng Lão Quân lấy ở núi Côn Lôn. Hai món bảo bối này có thể hút và đựng cả vạn người. Các món này được dùng để đựng tiên đơn và đựng nước. Ngân Giác Đại Vương và Kim Giác Đại Vương đã lấy trộm nó xuống trần làm yêu quái.
Dây thừng Hoàng Kim, Tháp Thất Bảo lung linh
Dây thừng Hoàng Kim là thắt lưng của Thái Thượng Lão Quân, có thể tự động thắt lại nhưng muốn tháo ra phải có thần chú, do đó khi Ngân Giác Đại Vương và Kim Giác Đại Vương đem nó xuống trần gian đã có lợi ích khi bắt Tôn Ngộ Không.
Chụp vàng
Chụp Vàng là bảo bối của Phật Di Lặc, nó bị đệ tử của ngài là Hoàng Mi mang xuống trần gian làm bảo vật, nó có thể nhốt người và làm tan chảy trong vài canh giờ. Tôn Ngộ Không đã rất khó khăn để thoát khỏi cái chụp này.
Túi Nhân Chủng
Túi Nhân Chủng cũng là một bảo vật của Phật Di Lặc, bị đệ tử của ngài là Hoàng Mi mang xuống trần gian làm bảo vật, nó có thể hút rất nhiều người. Nhị Thập Bát Tú đã từng bị bắt.
Các kiếp nạn
Dưới đây là danh sách 81 kiếp nạn trong Tây Du Ký:
Nạn thứ nhất: Kim Thiền bị biếm.
Nạn thứ hai: Đẻ ra hụt chết.
Nạn thứ ba: Đầy tháng quăng sông.
Nạn thứ tư: Tìm mẹ báo oan.
Nạn thứ năm: Ra thành gặp hổ.
Nạn thứ sáu: Trượt ngã xuống hố.
Nạn thứ bảy: Tại núi Song Xoa.
Nạn thứ tám: Trên núi Lưỡng Giới.
Nạn thứ chín: Đổi ngựa khe sâu.
Nạn thứ mười: Đêm bị lửa thiêu.
Nạn thứ mười một: Mất áo cà sa.
Nạn thứ mười hai: Thu hàng Bát Giới.
Nạn thứ mười ba: Gặp quái Hoàng Phong.
Nạn thứ mười bốn: Thỉnh mời Linh Cát.
Nạn thứ mười lăm: Lưu Sa khó vượt.
Nạn thứ mười sáu: Thu phục Sa Tăng.
Nạn thứ mười bảy: Bốn thánh hóa phép.
Nạn thứ mười tám: Trong quán Ngũ Trang.
Nạn thứ mười chín: Nhân sâm khó sống.
Nạn thứ hai mươi: Ngộ Không bị đuổi.
Nạn thứ hai mươi mốt: Lạc rừng Hắc Tùng.
Nạn thứ hai mươi hai: Mang thư nước Bảo Tượng.
Nạn thứ hai mươi ba: Hóa hổ điện Kim Loan.
Nạn thứ hai mươi tư: Gặp ma núi Bình Đính.
Nạn thứ hai mươi nhăm: Bị treo động Liên Hoa.
Nạn thứ hai mươi sáu: Cứu vua nước Ô Kê.
Nạn thứ hai mươi bảy: Bị ma hóa thân.
Nạn thứ hai mươi tám: Núi Hiệu Sơn gặp quái.
Nạn thứ hai mươi chín: Gió cuốn thánh tăng.
Nạn thứ ba mươi: Hành Giả bị hại.
Nạn thứ ba mươi mốt: Mời thánh hàng yêu.
Nạn thứ ba mươi hai: Chìm sông Hắc Thủy.
Nạn thứ ba mươi ba: Vận chuyển nước Xa Trì.
Nạn thứ ba mươi tư: Đánh cuộc thua được.
Nạn thứ ba mươi nhăm: Nén đạo bênh tăng.
Nạn thứ ba mươi sáu: Đường gặp sông lớn.
Nạn thứ ba mươi bảy: Chìm xuống thiên hà.
Nạn thứ ba mươi tám: Lồng cá hiện thân.
Nạn thứ ba mươi chín: Gặp quái núi Kim Đâu.
Nạn thứ bốn mươi: Thiên thần khó thắng.
Nạn thứ bốn mươi mốt: Hỏi Phật ngọn nguồn.
Nạn thứ bốn mươi hai: Uống nước ngộ độc.
Nạn thứ bốn mươi ba: Nước Tây Lương giữ cưới.
Nạn thứ bốn mươi tư: Động Tỳ Bà gặp tai.
Nạn thứ bốn mươi nhăm: Ngộ Không bị đuổi lần hai.
Nạn thứ bốn mươi sáu: Hai khỉ khó phân xử.
Nạn thứ bốn mươi bảy: Hỏa Diệm Sơn chắn lối.
Nạn thứ bốn mươi tám: Mượn quạt Ba Tiêu.
Nạn thứ bốn mươi chín: Bắt trói ma vương.
Nạn thứ năm mươi: Trai thành quét tháp.
Nạn thứ năm mươi mốt: Lấy báu cứu sư.
Nạn thứ năm mươi hai: Ngâm thơ rừng Kinh Cực.
Nạn thứ năm mươi ba: Gặp nạn Tiểu Lôi Âm.
Nạn thứ năm mươi tư: Thiên thần bị khốn.
Nạn thứ năm mươi nhăm: Nghẽn lối hẻm Hy Thị.
Nạn thứ năm mươi sáu: Chữa bệnh vua nước Chu Tử.
Nạn thứ năm mươi bảy: Cứu chữa gầy còm.
Nạn thứ năm mươi tám: Bắt yêu cứu hoàng hậu.
Nạn thứ năm mươi chín: Bảy tình mê muội.
Nạn thứ sáu mươi: Thần Đa Mục bị thương.
Nạn thứ sáu mươi mốt: Nghẽn lối núi Sư Đà.
Nạn thứ sáu mươi hai: Quái chia ba sắc.
Nạn thứ sáu mươi ba: Trong thành gặp nạn.
Nạn thứ sáu mươi tư: Mời Phật hàng ma.
Nạn thứ sáu mươi nhăm: Cứu trẻ con nước Tỳ Khưu.
Nạn thứ sáu mươi sáu: Phân rõ thực giả.
Nạn thứ sáu mươi bảy: Cứu quái rừng Hắc Tùng.
Nạn thứ sáu mươi tám: Buồng sư mắc bệnh.
Nạn thứ sáu mươi chín: Khốn đốn ở động Vô Để.
Nạn thứ bảy mươi: Bị nạn ở nước Diệt Pháp.
Nạn thứ bảy mươi mốt: Gặp ma núi Ẩn Vụ.
Nạn thứ bảy mươi hai: Quận Phượng Tiên cầu mưa.
Nạn thứ bảy mươi ba: Mất trộm binh khí.
Nạn thứ bảy mươi tư: Đại hội đinh ba.
Nạn thứ bảy mươi nhăm: Gặp nạn núi Trúc Tiết.
Nạn thứ bảy mươi sáu: Chịu khổ núi Huyền Anh.
Nạn thứ bảy mươi bảy: Đuổi bắt tê giác.
Nạn thứ bảy mươi tám: Nước Thiên Trúc kén rể.
Nạn thứ bảy mươi chín: Bị giam ở phủ Đồng Đài.
Nạn thứ tám mươi: Thoát thai bến Lăng Vân.
Nạn thứ tám mươi mốt: Gặp nạn nơi Thông Thiên hà.
Khái niệm chủ yếu
- "Nhất tâm đồng thể" (Một lòng, cùng mình) - Chuyện Tây Du Ký, chương 32 (第032回) có viết: "Thoại thuyết Đường tăng phức đắc liễu tôn hành giả, sư đồ môn nhất tâm đồng thể, cộng nghệ Tây phương = Chuyện nói về thầy tu Đường tìm được người đi cùng với Tôn Ngộ Không, và những học trò đi đến Tây phương chung, nhất tâm đồng thể (话说唐僧复得了孙行者、师徒们一心同体)".
Bản dịch tiếng Việt
Ở Việt Nam đã có nhiều người dịch Tây du ký ra tiếng Việt. Hai bản dịch thành công nhất là:
- Bản dịch của Thụy Đình do Chu Thiên hiệu đính, Nhà xuất bản Phổ thông Hà Nội, 1960; Nhà xuất bản Văn học tái bản năm 1997.
- Bản dịch của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, do Lương Duy Thứ giới thiệu, chia thành 10 tập, Nhà xuất bản Văn học in từ năm 1982 đến 1988. Năm 2007 được tái bản thành 2 tập, kèm theo 204 hình minh họa theo bản tiếng Trung. Năm 2015 được Đông A phát hành thành 3 tập.