✨Tây Bengal

Tây Bengal

Tây Bengal (, , nghĩa là "tây bộ Bengal") là một bang tại khu vực đông bộ của Ấn Độ. Đây là bang đông dân thứ tư toàn quốc, với trên 91 triệu dân theo số liệu năm 2011. Tây Bengal có diện tích , có biên giới quốc tế với Bangladesh (giáp các phân khu Rangpur, Rajshahi và Khulna), Nepal (giáp tỉnh số 1) và Bhutan (giáp cac vùng hành chính Samtse, Chukha và Sarpang), và có biên giới quốc nội với các bang Odisha, Jharkhand, Bihar, Sikkim, và Assam. Thủ phủ của bang là Kolkata. Tây Bengal cùng với quốc gia Bangladesh láng giềng và nhiều khu vực của bang Tripura hình thành khu vực dân tộc-ngôn ngữ Bengal.

Bengal cổ đại là nơi có một số vương quốc Vệ Đà lớn. Sau đó, khu vực trở thành bộ phận của các đế quốc lớn như Maurya và Gupta; rồi thuộc về các quốc gia Pala và Sena. Từ thế kỷ 13 trở đi, khu vực nằm dưới quyền cai trị của một vài sultan, quốc vương Ấn Độ giáo và địa chủ Baro-Bhuyan, kéo dài đến khi người Anh bắt đầu cai trị vào thế kỷ 18. Công ty Đông Ấn Anh củng cố sự chiếm giữ trong khu vực sau trận Plassey vào năm 1757, và Calcutta đóng vai trò là thủ đô của Ấn Độ thuộc Anh trong nhiều năm. Việc khu vực tiếp xúc sớm và kéo dài với sự cai trị của người Anh khiến cho giáo dục phương Tây được khoách trương, nhất là trong phát triển khoa học, cơ cấu giáo dục, và các cải cách xã hội. Bengal là một điểm nóng của phong trào độc lập Ấn Độ vào đầu thế kỷ 20, và bị phân chia khi Ấn Độ độc lập vào năm 1947 theo ranh giới tôn giáo thành hai thực thể riêng biệt: Tây Bengal là một bang của Ấn Độ, và Đông Bengal là bộ phận của Quốc gia tự trị Pakistan mới hình thành và đến năm 1971 thì trở thành quốc gia Bangladesh độc lập.

Tây Bengal là một khu vực lớn về sản xuất nông nghiệp, đóng góp nhiều thứ sáu vào tổng sản phẩm quốc nội ròng của Ấn Độ.

Từ nguyên

Nguồn gốc tên gọi Bengal (gọi là Bangla hay Bongo trong tiếng Bengal) chưa rõ. Một thuyết cho rằng từ này bắt nguồn từ "Bang", một bộ lạc Dravida định cư trong khu vực vào khoảng 1000 TCN.

Lịch sử

Tại Tây Bengal, người ta khai quật được các công cụ thời kỳ đồ đá có niên đại từ 20.000 năm trước. Khu vực là một bộ phận của Vương quốc Vanga, một vương quốc cổ đại của Ấn Độ thời sử thi. Vương quốc Magadha được hình thành vào thế kỷ 7 TCN, lãnh thổ gồm có các khu vực Bihar và Bengal. Đây là một trong bốn vương quốc chủ yếu của Ấn Độ trong thời kỳ của Mahavira và Thích Ca Mâu Ni, và gồm có vài Janapada, hay lãnh địa/vương quốc Vệ Đà.

Một trong số những tham khảo ngoại quốc sớm nhất về Bengal là trong một đề cập đến một vùng đất tên là Gangaridai bởi người Hy Lạp cổ đại vào khoảng năm 100 TCN. Từ này được suy đoán là bắt nguồn từ Gangahrd (vùng đất có sông Hằng nằm ở giữa) khi chỉ dẫn đến một khu vực tại Bengal. Bengal có các quan hệ mậu dịch hải ngoại với Suvarnabhumi (nay thuộc Myanmar, Thái Lan, Malaysia, và Sumatra). Theo sách Mahavamsa, một vương tử của Vanga là Vijaya Singha chinh phục Lanka (Sri Lanka hiện đại) và đặt tên "Sinhala" cho quốc gia.

nhỏ|trái|Đền Shyam Ray tại huyện [[Bankura được xây dựng vào khoảng năm 1643]] Sau một giai đoạn hỗn loạn, triều đại Pala Phật giáo cai trị khu vực trong bốn trăm năm, tiếp đến là giai đoạn cai trị ngắn ngủi của triều đại Sena Ấn Độ giáo. Rajendra Chola I của triều đại tại Nam Ấn từng xâm chiếm một số khu vực tại Bengal từ năm 1021 đến năm 1023. Hồi giáo xuất hiện lần đầu tiên tại Bengal trong thế kỷ 12 khi các nhà truyền giáo phái Sufi đến. Từ năm 1202 đến năm 1206, một sĩ quan của Vương quốc Hồi giáo Delhi là Bakhtiar Khilji tràn qua Bihar và Bengal xa về phía đông đến Rangpur, Bogra và sông Brahmaputra. Mặc dù không đưa được Bengal nằm dưới quyền kiểm soát của mình, song cuộc viễn chinh của Bakhtiar Khilji khiến cho Quốc vương của Sena và hai người con trai của ông ta phải chuyển đến một cung điện nay thuộc huyện Munshiganj của Bangladesh, quyền lực của họ suy giảm cho đến cuối thế kỷ 13.

Trong thế kỷ 14, vương quốc cũ được biết đến với tên gọi Vương quốc Hồi giáo Bengal, cai trị không liên tục cùng với Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng như các quốc gia Ấn Độ giáo và địa chủ Baro-Bhuyan hùng mạnh. Vương quốc Deva cai trị đông bộ Bengal sau khi Sena sụp đổ. Vương quốc Hồi giáo Bengal gián đoạn do một cuộc nổi dậy của những người Ấn Độ giáo dưới quyền Raja Ganesha. Triều đại Ganesha bắt đầu vào năm 1414, song những người kế vị của ông sau đó cải sang Hồi giáo. Bengal một lần nữa nằm dưới quyền kiểm soát của triều đình Delhi khi Đế quốc Mogul chinh phục khu vực vào năm 1576. Có vài quốc gia Ấn Độ giáo độc lập được thành lập tại Bengal trong thời kỳ Mogul như Maharaja Pratap Aditya của Jessore và Raja Sitaram Ray của Burdwan. Các vương quốc này có đóng to lớn vào cảnh sắc kinh tế và văn hóa của Bengal, là những bức tường thành chống lại các cuộc tiến công của Bồ Đào Nha và Miến Điện. Vương quốc Koch Bihar tại bắc bộ Bengal trở nên thịnh vượng trong thế kỷ 16 và 17, chiến thắng trước người Mogul và tồn tại cho đến thời người Anh cai trị.

Các thương nhân châu Âu đến Bengal vào cuối thế kỷ 15, ảnh hưởng của họ tăng lên cho đến khi Công ty Đông Ấn Anh giành được quyền đánh thuế tại tỉnh (subah) Bengal sau trận Plassey vào năm 1757, khi Nawab Siraj ud-Daulah chiến bại trước người Anh. Khu quản hạt Bengal được thành lập vào năm 1765, cuối cùng bao gồm toàn bộ các lãnh thổ của Anh tại phía bắc của tỉnh Trung Bộ (nay là Madhya Pradesh), từ các cửa của sông Hằng và sông Brahmaputra đến dãy Himalaya và Punjab. Nạn đói Bengal năm 1770 được cho là khiến hàng triệu người thiệt mạng. Năm 1772, Calcutta được xác định là thủ đô của Ấn Độ thuộc Anh. Các phong trào cải cách xã hội-văn hóa Phục hưng Bengal và Brahmo Samaj có tác động lớn đến sinh hoạt văn hóa và kinh tế của Bengal. Cuộc nổi dậy Ấn Độ năm 1857 bắt đầu gần Calcutta và kết quả là chuyển giao quyền lực cho Vương thất Anh, do Phó vương Ấn Độ cai quản. Từ năm 1905 đến năm 1911, diễn ra một nỗ lực nhằm phân tỉnh Bengal thành hai khu, song thất bại. Ước tính có ba triệu người thiệt mạng trong nạn đói Bengal năm 1943.

Bengal đóng một vai trò trọng đại trong phong trào độc lập Ấn Độ, trong đó các nhóm cách mạng như Anushilan SamitiJugantar chiếm ưu thế. Các nỗ lực vũ trang chống lại chính phủ Ấn Độ thuộc Anh từ Bengal lên đến một đỉnh cao khi Subhas Chandra Bose lãnh đạo Quân đội Quốc dân Ấn Độ chống lại người Anh từ Đông Nam Á. Khi Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, Bengal bị phân chia theo ranh giới tôn giáo, phần phía tây thuộc Ấn Độ (va được đổi tên thành Tây Bengal) trong khi phần phía đông gia nhập Pakistan với địa vị một tỉnh và được gọi là Đông Bengal (sau đổi tên thành Đông Pakistan). Năm 1950, Phiên vương quốc Koch Bihar hợp nhất với West Bengal. Năm 1955, cựu thuộc địa Chandannagar của Pháp (Ấn Độ kiểm soát sau năm 1950) được tích hợp với Tây Bengal; một số phần của Bihar sau đó được hợp nhất với Ttây Bengal. Cả Tây và Đông Bengal chứng kiến qua dòng người tị nạn lớn trong và sau khi phân chia vào năm 1947. Định cư những người tị nạn và các vấn đề liên quan tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong điều kiện chính trị và xã hội-kinh tế của bang.

Trong các thập niên 1970 và 1980, tình trạng thiếu điện nghiêm trọng, các vụ đình công và một phong trào Marxist-Naxalite bạo lực gây nhiều thiệt hại cho cơ sở hạ tầng của bang, kéo theo một giai đoạn kinh tế đình trệ. Chiến tranh giải phóng Bangladesh năm 1971 khiến cho hàng triệu người tị nạn đến Tây Bengal, khiến cơ sở hạ tầng của bang bị quá tải nghiêm trọng. Chính trị Tây Bengal trải qua một sự thay đổi lớn khi Mặt trận Cánh Tả giành chiến thắng trong cuộc bầu cử nghị viện bang vào năm 1977, đánh bại Đảng Quốc Đại đang cầm quyền. Mặt trận Cánh Tả do Đảng Cộng sản Ấn Độ (Marxist) dẫn đầu đã cầm quyền tại Tây Bengal trong ba thập niên sau đó.

Địa lý và khí hậu

thumb|Nhiều khu vực tại Tây Bengal vẫn bị ngập khi có những cơn mưa lớn do gió mùa. Tây Bengal nằm ở cổ chai phía đông của Ấn Độ, trải dài từ dãy Himalaya ở phía bắc đến vịnh Bengal ở phía nam. Bang có tổng diện tích là . Vành đai Terai chia tách khu vực đồi này với các khu vực đồng bằng, dần chuyển tiếp sang đồng bằng châu thổ sông Hằng ở phía nam. Khu vực Rarh xen giữa đồng bằng châu thổ sông Hằng ở phía đông và các cao nguyên và cao địa phía tây. Một khu vực ven biển nhỏ nằm ở cực nam, trong khi rừng ngập mặn Sundarban tạo thành một dấu mốc địa lý đáng chú ý tại đồng bằng châu thổ sông Hằng.

Sông Hằng là sông chính tại tây Bengal, sông phân lưu tại bang. Một nhánh chảy vào Bangladesh với tên gọi Padma hay Pôdda, nhánh khác chảy qua Tây Bengal được gọi là sông Bhagirathi hay sông Hooghly. Đập nước Farakka trên sông Hằng cung cấp nước cho nhánh Hooghly qua một kênh nhánh, và quản lý lưu lượng nước là một nguồn gây tranh chấp kéo dài giữa Ấn Độ và Bangladesh. Các sông Teesta, Torsa, Jaldhaka và Mahananda nằm tại khu vực gò đồi phía bắc. Khu vực cao nguyên phía tây có các sông như Damodar, Ajay và Kangsabati. Đồng bằng châu thổ sông Hằng và khu vực rừng Sundarban có nhiều sông lạch. Ô nhiễm trên sông Hằng là một vấn đề lớn, bắt nguồn từ hành động đổ chất thải bừa bãi xuống sông. Sông Damodar là một chi lưu của sông Hằng và từng được gọi là "nỗi đau của Bengal" (do thường xuyên gây lụt), song một số đập được xây trên sông trong khuôn khổ Dự án Thung lũng Damodar. Có ít nhất chín huyện trong bang bị ô nhiễm asen nước ngầm, và một ước tính cho rằng 8,7 triệu người uống nước có chứa hàm lượng asen trên giới hạn khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 10 µg/L.

Khí hậu Tây Bengal thay đổi từ xa van nhiệt đới ở các phần thuộc nam bộ đến cận nhiệt đới ẩm ở phía bắc. Các mùa chính là mùa hạ, mùa mưa, một mùa thu ngắn, và mùa đông. Trong mùa hạ, vùng đồng bằng châu thổ có độ ẩm quá mức, các vùng cao nguyên phía tây trải qua một mùa hạ khô giống như bắc bộ Ấn Độ, với nhiệt độ cao nhất trong ngày dao động từ đến . Vào ban đêm, có gió nhẹ mát thổi từ phía nam mang theo hơi ẩm từ vịnh Bengal. Vào đầu mùa hạ, các cơn gió mạnh và dông tố ngắn ngủi thường diễn ra, chúng được gọi là Kalbaisakhi, hay Nor'westers. Tây Bengal nhận được nhánh vịnh Bengal của gió mùa Ấn Độ Dương vốn di chuyển thẳng theo hướng tây bắc. Từ tháng 6 đến tháng 9, gió mùa mang mưa đến toàn bang. Trong thời gian có gió mùa, áp suất thấp tại khu vực vịnh Bengal thường gây ra dông tố tại các khu vực ven biển. Trong mùa đông, từ tháng 12 đến tháng 1, khí hậu ôn hòa tại vùng đồng bằng với nhiệt độ thấp nhất trong ngày trung bình là . trong khi mức trung bình toàn quốc là 21,02%. Trong đó, rừng dự trữ, bảo hộ và không phân loại lần lượt chiếm 59,4%, 31,8% và 8,9%.

Xét theo quan điểm thực vật địa lý học, phần nam bộ của Tây Bengal có thể được phân thành hai khu vực: đồng bằng sông Hằng và rừng ngập mặn ven biển Sundarban. Đất phù sa của đồng bằng sông Hằng cộng với lượng mưa thuận lợi khiến cho khu vực này đặc biệt phì nhiêu.

Phân bố thực vật tại bắc bộ Tây Bengal chịu ảnh hưởng của độ cao và lượng mưa. Ví dụ như các chân đồi của dãy Himalaya có cây cối rậm rạp với Sala và các cây thường xanh nhiệt đới khác. Tuy nhiên, ở độ cao trên thì chủ yếu là rừng cận nhiệt đới. Huyện Darjeeling có độ cao trên , các loài cây rừng ôn đới như sồi, Thông, và đỗ quyên chiếm ưu thế. Những khu rừng nằm trên độ cao lớn của vườn quốc gia Singalila là nơi trú ẩn của mang, gấu trúc đỏ, Gazella bennettii, trâu rừng Tây Tạng, sơn dương, tê tê, PericrocotusLophura leucomelanos. Vườn quốc gia Sundarban có một dự án bảo tồn loài hổ Bengal đang gặp nguy hiểm, song trong các khu rừng còn có nhiều loài bị đe dọa khác, như cá heo sông Hằng, rùa nước ngọt và cá sấu cửa sông. Rừng ngập mặn cũng đóng vai trò là một nơi nuôi cá tự nhiên, cấp dưỡng cho các loài cá ven biển dọc theo vịnh Bengal. trong đó có một nghị viên được chỉ định từ cộng đồng Anh-Ấn. Các nghị viên có nhiệm kỳ 5 năm, trừ khi nghị viện bị giải tán trước khi hoàn tất nhiệm kỳ. Các cơ quan phụ trợ được gọi là panchayat, hình thành sau các cuộc tuyển cử cơ cấu địa phương được tổ chức thường xuyên, quản lý sự vụ địa phương. Tây Bengal được phân 42 ghế trong Lok Sabha và 16 ghế trong Rajya Sabha của Quốc hội Ấn Độ.

Các đấu thủ chính trong chính trị địa phương là Đại hội Đại biểu cơ sở Toàn Ấn (AITMC), Đảng Quốc Đại Ấn Độ, liên minh Mặt trận Cánh Tả (dẫn đầu là Đảng Cộng sản Ấn Độ (Marxist)). Sau tuyển cử nghị viện bang Tây Bengal năm 2011, liên minh của Đại hội Đại biểu cơ sở Toàn Ấn và Đảng Quốc Đại dưới quyền Mamata Banerjee của AITMC giành được đa số tại nghị viện và nắm quyền. Tây Bengal nằm dưới quyền cai trị của Mặt trận Cánh Tả trong 34 năm (1977–2011), khiến nó trở thành chính phủ cộng sản được bầu cử dân chủ nắm quyền liên tục lâu nhất thế giới.

Huyện trưởng là người cai quản mỗi huyện, người này do Cục hành chính Ấn Độ hoặc Cục Dân sự Tây Bengal bổ nhiệm. Mỗi huyện được phân thành các phân khu, do phân khu trưởng cai quản, và được phân tiếp thành các xã. Các xã gồm có các panchayat (hội đồng thôn) và khu tự quản đô thị. và là thành phố lớn thứ bảy toàn quốc. Asansol là thành phố và đại đô thị lớn thứ nhì tại Tây Bengal. Vành đai mỏ than Durgapur–Asansol có một số nhà máy thép quy mô lớn. Bang đóng góp 9,8% vào tổng sản phẩm công nghiệp của Ấn Độ vào năm 1980–81, song giảm còn 5% trong năm 1997–98. Tuy nhiên, lĩnh vực dịch vụ lại có mức tăng trưởng cao hơn mức của toàn quốc. GSDP đầu người của bang theo giá hiện tại vào năm là 956,4 đô la Mỹ, tăng so với 553,7 đô la Mỹ vào năm 2004–05,

Tây Bengal xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn này chủ yếu đổ vào các lĩnh vực phần mềm và điện tử; Kolkata đang trở thành một trung tâm lớn của công nghiệp công nghệ thông tin. Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng gây nên tranh luận về việc thu hồi đất trong bang. NASSCOM–Gartner xếp Tây Bengal ở hạng tốt nhất về cơ sở hạ tầng điện tại Ấn Độ. Các sự kiện như chính phủ Ấn Độ thông qua chính sách "Hướng Đông", mở cửa đèo Nathu La tại Sikkim để thông thương mậu dịch với Trung Quốc, các quốc gia Đông Nam Á có quan tâm lớn đối với việc đi vào thị trường Ấn Độ, cùng đầu tư tạo cho Kolkata có một vị thế thuận lợi để phát triển trong tương lai, đặc biệt là với các quốc gia như Myanmar, là nơi mà Ấn Độ có nhu cầu về nhập khẩu dầu.

Giao thông

thumb|right|Đường sắt ngoại ô Kolkata là phương tiện vận chuyển người dân ngoại ô Kolkata đến nơi làm việc. Năm 2011, tổng chiều dài mặt đường bộ của Tây Bengal là trên ; và bang lộ dài tổng cộng .

Năm 2011, tổng chiều dài đường sắt của Tây Bengal là khoảng . Đường sắt Biên giới Đông Bắc chạy qua các khu vực bắc bộ của bang. Tàu điện ngầm Kolkata là đường sắt ngầm đầu tiên tại Ấn Độ. Đường sắt Himalaya Darjeeling là một di sản thế giới của UNESCO, và thuộc Đường sắt biên giới Đông Bắc (NFR).

Cảng hàng không quốc tê lớn nhất tại Tây Bengal là cảng hàng không quốc tế Netaji Subhas Chandra Bose tại Dum Dum, Kolkata. Kolkata cũng là một cảng sông chính tại đông bộ Ấn Độ. Kolkata Port Trust quản lý cả bến tàu Kolkata và bến tàu Haldia. Tây Bengal có dịch vụ vận chuyển hành khách đến Port Blair thuộc Quần đảo Andaman và Nicobar và dịch vụ tàu chở hàng đến các cảng tại Ấn Độ và hải ngoại, nằm dưới sự điều hành của Shipping Corporation of India. Phà là phương thức giao thông chính ở phần nam bộ của Tây Bengal, đặc biệt là tại khu vực Sundarban. Kolkata là thành phố duy nhất tại Ấn Độ có loại hình giao thông xe điện và do Calcutta Tramways Company điều hành. Tai nạn giao thông quy mô lớn là điều thường xảy ra tại Tây Bengal, đặc biệt là chìm tàu vận tải và tai nạn xe lửa.

Nhân khẩu

nhỏ|phải|Đền Dakshineswar Kali nằm gần Kolkata

Theo kết quả tạm thời của tổng điều tra nhân khẩu toàn quốc năm 2011, Tây Bengal là bang đông dân thứ tư tại Ấn Độ với dân số là 91.347.736. Các cộng đồng thiểu số Marwar, Bihar và Oriya phân bố rải rác khắp bang; các cộng đồng Sherpas và Tạng hiện diện tại khu vực đồi Himalaya Darjeeling. Huyện Darjeeling có một số lượng lớn người Nepal nhập cư. Tây Bengal là nơi cư trú của các bộ lạc bản địa (Adivasi) như Santhal, Kol, và Toto. Có một số lượng nhỏ người dân tộc thiểu số tập trung tại Kolkata, trong đó có người Hoa, Tamil, Gujarat, Anh-Ấn, Armenia, Punjab, Bái Hỏa giáo. Phố Tàu duy nhất tại Ấn Độ nằm tại đông Kolkata.

Ngôn ngữ chính thức của Tây Bengal là tiếng Bengal và tiếng Anh. Tốc độ tăng trưởng dân số trong giai đoạn 2001–2011 tại Tây Bengal là 13,93%, Tỷ số giới tính tại Tây Bengal là 947 nữ trên 1000 nam. Dữ liệu giai đoạn 1995–1999 cho thấy tuổi thọ trong bang là 63,4 năm, cao hơn mức 61,7 năm của toàn quốc. Khoảng 72% dân số Tây Bengal sống tại các khu vực nông thôn. Tỷ lệ người dân sống dưới mức nghèo khổ trong giai đoạn 1999–2000 là 31,9%.

Năm 2011, cảnh sát Tây Bengal ghi nhận 143.197 vụ phạm tội hình sự theo luật hình sự Ấn Độ, số liệu trên toàn Ấn Độ vào năm này là 2.325.575. Tỷ lệ phạm tội trong bang là 158,1/100.000 dân, thấp hơn mức trung bình toàn quốc là 192,2. Tây Bengal có tỷ lệ phạm tội thấp thứ 12 trong số các bang và lãnh thổ liên bang tại Ấn Độ. Tây Bengal chiếm khoảng 12,2% tổng số vụ phạm tội chống lại nữ giới tại Ấn Độ vào năm 2010.

Văn hóa

Ngôn ngữ Bengal có một di sản văn học phong phú, Tây Bengal cùng với Bangladesh có truyền thống lâu đời về văn học dân gian, được minh chứng qua các tác phẩm Charyapada, Mangalkavya, Shreekrishna Kirtana, Thakurmar Jhuli, và các chuyện liên quan đến Gopal Bhar. Trong thế kỷ 19 và 20, văn học Bengal được hiện đại hóa với các tác phẩm của các tác gia như Bankim Chandra Chattopadhyay, Michael Madhusudan Dutt, Rabindranath Tagore, Kazi Nazrul Islam, Sharat Chandra Chattopadhyay, Jibananda Das và Manik Bandyopadhyay. Trong thời hiện đại, Jibanananda Das, Bibhutibhushan Bandopadhyay, Tarashankar Bandopadhyay, và những người khác là các tác gia nổi tiếng.

Truyền thống Baul là một di sản độc đáo trong âm nhạc dân gian Bengal, vốn cũng chịu ảnh hưởng từ các truyền thống âm nhạc khu vực. Các hình thức âm nhạc dân gian khác gồm có Gombhira và Bhawaiya. Âm nhạc dân gian tại Tây Bengal thường được thể hiện cùng với một nhạc cụ một dây gọi là ektara. "Rabindrasangeet" là các bài hát do Rabindranath Tagore sáng tác và đặt giai điệu, nó phổ biến vùng với "Nazrul geeti" của Kazi Nazrul Islam. Các hình thức âm nhạc nổi bật khác có các bài hát Dwijendralal, Atulprasad và Rajanikanta, và "adhunik" hay âm nhạc hiện đại từ các phim và các nhà soạn nhạc khác.

Dòng chủ đạo của điện ảnh Ấn Độ là phim tiếng Hindi phổ biến tại Tây Bengal, và bang có một ngành công nghiệp điện ảnh phát triển mạnh, được gọi là "Tollywood". Tollygunj tại Kolkata là địa điểm có nhiều xưởng phim tiếng Bengal, và tên gọi Tollywood bắt nguồn từ đó. Công nghiệp điện ảnh tiếng Bengal nổi tiếng với các bộ phim nghệ thuật, sản sinh ra các đạo diễn nổi tiếng như Satyajit Ray hay Mrinal Sen.

Gạo và cá là các thực phẩm được ưa chuộng theo truyền thống. Có nhiều cách chế biến cá tùy theo kết cấu, kích cỡ, lượng chất béo và xương. Đồ ăn ngọt có vai trò quan trọng trong món ăn và nghi lễ xã hội của người Bengal. Việc chia đồ ngọt trong các lễ hội là truyền thống cổ xưa của cả người Bengal Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Công nghiệp mứt kẹo phát triển mạnh mẽ do liên quan đến các nghi lễ xã hội và tôn giáo. Khu vực Bengal hết sức đa dạng về rau quả. Các món chay hầu như không có hành tỏi.

Phụ nữ Bengal thường mặc shaŗi, chúng thường được thiết kế riêng biệt theo phong tục văn hóa địa phương. Tại các khu vực đô thị, nhiều nữ giới và nam giới mặc Âu phục. Nam giới chấp nhận Âu phục rộng rãi hơn, họ cũng thường mặc các trang phục truyền thống như panjabi cùng với dhuti vào những dịp văn hóa.

Durga Puja trong tháng 10 là lễ hội phổ biến nhất tại Tây Bengal. Poila Baishakh (năm mới Bengal), Rathayatra, Dolyatra hay Basanta-Utsab, Nobanno, Poush Parbon (lễ hội Poush), Kali Puja, SaraswatiPuja, LaxmiPuja, Giáng sinh, Eid ul-Fitr, Eid ul-Adha và Muharram là các lễ hội lớn khác. Phật Đản là một trong những lễ hội quan trọng nhất của Ấn Độ giáo/Phật giáo.

Giáo dục

Các trường học tại Tây Bengal nằm dưới sự điều hành của chính phủ bang hoặc các tổ chức tư nhân, trong đó có các thể chế tôn giáo. Ngôn ngữ giảng dạy chủ yếu là tiếng Anh hoặc tiếng Bengal, song tiếng Urdu cũng được sử dụng, đặc biệt là tại Trung Kolkata. Các trường trung học là thành viên của Hội đồng Khảo thí chứng chỉ trường học Ấn Độ (CISCE), Ủy ban Trung ương về Giáo dục trung học (CBSE), Viện quốc gia về Giáo dục mở (NIOS) hoặc Ủy ban Tây Bengal về Giáo dục trung học. Theo kế hoạch 10+2+3, sau khi hoàn thành cấp trung học, học sinh thường theo học 2 năm tại một trường cao đẳng, cũng gọi là dự bị đại học, hoặc tại các trường trung học cao cấp là hội viên của Hội đồng Tây Bengal về Giáo dục trung học cao cấp hoặc các ủy ban trung ương khác. Học sinh lựa chọn một trong ba ban là khai phóng, thương nghiệp hoặc khoa học. Sau khi hoàn thành khóa trình theo yêu cầu, học sinh có thể ghi danh vào các chương trình cấp độ tổng quát hoặc chuyên nghiệp.

Tây Bengal có 18 đại học. Đại học Calcutta là một trong các đại học công lâu năm nhất và lớn nhất tại Ấn Độ, với rất nhiều trường đại học thành viên. Kolkata đóng một vai trò tiên phong trong việc phát triển hệ thống giáo dục hiện đại tại Ấn Độ. Trường đại học Fort William được thành lập vào năm 1810. Trường đại học Hindu được thành lập vào năm 1817, và đến năm 1855 thì đổi tên thành trường đại học Presidency. Đại học Kỹ thuật & Khoa học Bengal và Đại học Jadavpur là những đại học kỹ thuật có uy tín. Đại học Visva-Bharati tại Santiniketan là một đại học trung ương và một học viện có tầm quan trọng quốc gia.

Truyền thông

Năm 2005, Tây Bengal có 505 báo phát hành, trong đó có 389 báo tiếng bengal. Đài Phát thanh Toàn Ấn là đài công cộng. và có các câu lạc bộ hàng đầu toàn quốc như East Bengal, Mohun Bagan và Mohammedan Sporting. Các môn thể thao Ấn Độ như Kho Kho và Kabaddi cũng được chơi tại Tây Bengal. Câu lạc bộ Polo Calcutta được cho là câu lạc bộ polo lâu năm nhất trên thế giới, và Câu lạc bộ Golf Royal Calcutta là câu lạc bộ golf lâu năm nhất bên ngoài Anh Quốc.

Tây Bengal có một số sân vận động lớn: Eden Gardens là một trong hai đấu trường cricket duy nhất có 100.000-chỗ trên thế giới, song các cải tiến sẽ làm giảm con số này. Kolkata Knight Riders, East Zone và Bengal thi đấu tại sân này, và chung kết cup Cricket thế giới 1987 diễn ra tại đây. Sân vận động Salt Lake là sân đa chức năng, và là sân bóng đá có sức chứa cao thứ nhì trên thế giới. Câu lạc bộ cricket và bóng đá Calcutta là câu lạc bộ cricket lâu năm thứ nhì trên thế giới. Các sự kiện thể thao quốc gia và quốc tế từng được tổ chức tại Durgapur, Siliguri và Kharagpur.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tây Bengal** (, , nghĩa là "tây bộ Bengal") là một bang tại khu vực đông bộ của Ấn Độ. Đây là bang đông dân thứ tư toàn quốc, với trên 91 triệu dân theo
**Aurangabad** là một thị trấn thống kê (_census town_) của quận Murshidabad thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ. ## Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Aurangabad có dân số
**Tiếng Bengal**, cũng được gọi là **tiếng Bangla** ( ), một ngôn ngữ Ấn-Arya được nói tại Nam Á. Đây là ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ quốc gia của Cộng hòa Nhân dân
**Nawab của Bengal** (tiếng Bengal: বাংলার নবাব) là người cai trị cha truyền con nối của Subah Bengal thuộc Đế quốc Mogul (Ấn Độ). Nawab của một phiên vương quốc hoặc tỉnh tự trị có
**Lịch sử Bengal** bao gồm Bangladesh ngày nay và Tây Bengal ở phần phía đông của tiểu lục địa **Ấn Độ**, ở đỉnh của **vịnh Bengal** và bị chi phối bởi vùng đồng bằng sông
**Người Bengal** ( __) là một dân tộc và nhóm sắc tộc Ấn-Arya sinh sống tại vùng Bengal ở Nam Á, địa phận nay được chia ra làm Đông Bengal của Bangladesh và Tây Bengal
**Vịnh Bengal** (, [bɔŋgopoʃagoɾ], [bəŋgɑːl kɪː kʰɑːɽɪː]) là một trong những vịnh lớn nhất thế giới, nằm ở Nam Á, phía đông bắc Ấn Độ Dương. Vịnh Bengal có hình gần như tam giác, có
**Nạn đói Bengal năm 1943** xuất hiện ở bang Bengal chưa bị chia cắt (ngày nay là nước Bangladesh độc lập và bang Tây Bengal thuộc Ấn Độ) năm 1943. Người ta ước tính rằng
Lãnh thổ của Subah Bengal **Subah Bengal** (còn được gọi là **Mughal Bengal**) là phân khu lớn nhất của Đế chế Mughal bao gồm phần lớn khu vực Bengal, tức là bao gồm Bangladesh hiện
**Bengal** ( , _Bôngo_, _Bôngodesh_, hay _Bangladesh_) là một khu vực lịch sử và địa lý ở đông bắc của Tiểu lục địa Ấn Độ, tại đỉnh của vịnh Bengal. Ngày nay, khu vực chủ
**Lịch Bengal** hay **Lịch Bangla** (), thông tục (), là một loại lịch dương được sử dụng ở vùng Bengal thuộc Nam Á. Kỷ nguyên Bengal được gọi là _Bengali Sambat_ (BS) hoặc _năm Bengali_
Lịch sử văn minh của Bangladesh bắt đầu từ hơn bốn thiên niên kỷ, từ Thời đại đồ đồng đá. Lịch sử được ghi chép lại ban đầu của đất nước thể hiện sự kế
**Hổ Bengal** hay **Hổ hoàng gia Bengal** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris tigris_**) là một phân loài hổ được tìm thấy nhiều nhất tại Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Bhutan và miền nam Tây Tạng.
Lì Xì Tết Độc với bộ tiền thật 52 tờ tiền 28 nước trên thế giới được sưu tầm từ nhiều quốc gia trên thế giới các bạn ơi!Hãy gom hết may mắn của 28
**Tiếng Santal** là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Munda của ngữ hệ Nam Á, cùng với tiếng Ho, tiếng Munda. Nó được nói bởi khoảng 7,6 triệu người tại Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và
thumb|right|Mô hình tàu của đội thám hiểm Trịnh Hòa, [[bảo tàng khoa học Hồng Kông.]] **Trịnh Hòa hạ Tây Dương** là bảy chuyến thám hiểm hàng hải của hạm đội kho báu cho nhà Minh
phải|nhỏ|289x289px|Hành lang Siliguri là một dải lãnh thổ Ấn Độ nằm trong vòng màu đỏ. **Hành lang Siliguri** là một dải đất hẹp nằm ở phía đông của Nam Á, gần thành phố Siliguri của
**Vườn quốc gia Sundarban** (tiếng Bengal: সুন্দরবন জাতীয় উদ্দ্যান) là một vườn quốc gia, khu bảo tồn hổ, khu dự trữ sinh quyển nằm ở Tây Bengal, Ấn Độ. Đây là một phần của rừng
**Bão Bhola năm 1970** là một xoáy thuận nhiệt đới tấn công Đông Pakistan (nay là Bangladesh) và bang Tây Bengal của Ấn Độ vào ngày 12 tháng 11 năm 1970. Đây là xoáy thuận
**Ghat Đông** (, _Tūrpu Kanumalu_,, _Pūrbaghāṭa Parbatamāḷā_, , _Pūrva Ghaṭṭa_, _Kiḻakkut Toṭarcci Malaikaḷ_) là một dãy núi không liên tục dọc theo bờ biển phía đông Ấn Độ song song với bờ Vịnh Bengal. Ghat
**Dê đen Bengal** là một giống dê được tìm thấy trên khắp Bangladesh, Tây Bengal, Bihar và Orissa vùng đông bắc Ấn Độ. Loài này thường có màu đen nhưng cũng có màu nâu, trắng
**Tiếng Magaha**, còn được gọi là **tiếng** **Magadha**, là ngôn ngữ được sử dụng ở các bang Bihar, Jharkhand và Tây Bengal của miền đông Ấn Độ. Magadhi Prakrit là tổ tiên của tiếng Magaha.
**Tiếng Oriya** hay **tiếng Odia** (ଓଡ଼ିଆ __) là một ngôn ngữ Ấn Độ, thuộc nhánh Ấn-Arya của Ngữ hệ Ấn-Âu. Tiếng Oriya chủ yếu được sử dụng tại bang Orissa (tên mới là Odisha), nơi
**Tiếng Nepal** (नेपाली) là ngôn ngữ của người Nepal và là ngôn ngữ chính thức trên thực tế của Nepal. Tiếng Nepal là một thành viên của ngữ chi Ấ́n-Arya thuộc ngữ tộc Ấ́n-Iran của
**Tiếng Sadri** hay **tiếng Nagpur** là một ngôn ngữ Ấn-Arya Đông nói ở Jharkhand, Chhattisgarh và Odisha. Đây đôi lúc bị coi là một phương ngữ tiếng Hindi. Nó là bản ngữ của người Sadan.
**Bắc 24 Parganas** là một huyện thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ. Thủ phủ huyện Bắc 24 Parganas đóng ở Barasat. Huyện Bắc 24 Parganas có diện tích 4.095 km². Đến thời điểm năm 2001, huyện
**Ghat Tây**, **Ghaut Tây** còn được gọi là **Sahyadri** là một dãy núi có diện tích 140.000 km² chạy dài 1.600 km song song với bờ biển phía tây của bán đảo Ấn Độ. Về mặt hành
**Mouni Roy** **Nambiar**(sinh ngày 28 tháng 9 năm 1985) là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công và cựu người mẫu Ấn Độ, cô chủ yếu hoạt động trong các bộ phim và truyền
**Chakravarti Rajagopalachari** (10 tháng 12 năm 1878 - 25 tháng 12 năm 1972), thường được gọi là Rajaji hoặc gọi tắt là CR, còn được gọi là Mootharignar Rajaji (Rajaji, Học giả danh dự), là
**Sân bay Bagdogra** hay **Civil Aerodrome Bagdogra** , là một sân bay quân sự mở cửa cho hàng không dân sự, năm cách Siliguri 16 km ở phía bắc Tây Bengal, Ấn Độ. Sân bay này
**Nam 24 Parganas** là một huyện thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ. Thủ phủ huyện Nam 24 Parganas đóng ở Alipore. Huyện có diện tích 9.955 km². Đến thời điểm năm 2001, huyện Nam 24 Parganas
thumb|Dahala Khagrabari từng là vùng đất nội phận bậc 3 lần duy nhất trên thế giới. **Dahala Khagrabari (#51)** từng là một mảnh đất nội phận thuộc huyện Koch Bihar, bang Tây Bengal, Ấn Độ.
**Bệnh tay, chân và miệng** (; viết tắt tiếng Anh: **HFMD**, tiếng Việt: **Bệnh TCM**) còn gọi là **bệnh tay chân miệng**, là một hội chứng bệnh ở người do virus đường ruột của họ
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2006** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão sẽ kéo
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997** không có giới hạn chính thức, nó trải dài suốt năm, bắt đầu từ 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 tháng 12. Tuy nhiên tháng
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1992** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1992, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1973** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1973, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Chiến tranh giải phóng Bangladesh** ( _Muktijuddho_) diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó
thumb|Tuần hành ngày 21 tháng 2 năm 1952 tại [[Dhaka]] **Phong trào ngôn ngữ Bengal** là một phong trào chính trị tại Đông Bengal (nay là Bangladesh) chủ trương công nhận tiếng Bengal là một
**Bangladesh** ( , , nghĩa là "Đất nước Bengal"), tên chính thức là **Cộng hoà Nhân dân Bangladesh** (tiếng Bengal: গণপ্রজাতন্ত্রী বাংলাদেশ), là một quốc gia có chủ quyền nằm ở vùng Nam Á. Bangladesh giáp
**Kolkata** ( ), trước đây, trong các văn cảnh tiếng Anh, **Calcutta**, là thủ phủ của bang Tây Bengal, Ấn Độ. Thành phố tọa lạc ở phía Đông Ấn Độ bên bờ sông Hooghly. Thành
**Bão xoáy rất dữ dội Matmo−Bulbul** hay là cơn **bão số 5** ở Việt Nam là một xoáy thuận nhiệt đới mạnh và hoạt động dài ngày đã đổ bộ lên tỉnh Phú Yên vào
**Sikkim** (, tiếng Sikkim: སུ་ཁྱིམ་), hay **Xích Kim**, **Tích Kim** (錫金) là một bang nội lục của Ấn Độ. Bang nằm trên dãy Himalaya, có biên giới quốc tế với Nepal ở phía tây (giáp
**Hải cảng Mongla** là cảng biển sầm uất thứ hai của Bangladesh. Nó nằm ở huyện Bagerhat ở phía tây nam của đất nước; và nằm cách bờ biển Vịnh Bengal 62 km về phía bắc.
**Sân vận động Salt Lake** (), tên chính thức là **Vivekananda Yuba Bharati Krirangan** (**VYBK**; ), là một sân vận động đa năng ở Bidhannagar, Kolkata. Sân hiện có sức chứa 85.000 chỗ ngồi. Sân
**Đế quốc Maurya** là một thế lực hùng mạnh trên một diện tích rộng lớn vào thời Ấn Độ cổ đại, do **vương triều Maurya** cai trị từ năm 321 đến 185 TCN. Đế quốc
**Darjeeling** () là một thành phố thuộc bang Tây Bengal của Ấn Độ. Nó nằm trên dãy Mahabharata (còn gọi là dãy Tiểu Himalaya) ở độ cao . Nó nổi danh nhờ nền công nghiệp
**Lộc vừng**, còn gọi là **chiếc** hay **lộc mưng** (danh pháp khoa học: **_Barringtonia acutangula_**) là một loài thuộc chi Lộc vừng, là loài cây bản địa của các vùng đất ẩm ven biển Nam
Đông Ấn Độ **Đông Ấn Độ** là một miền của Ấn Độ, bao gồm các bang Tây Bengal, Bihar, Jharkhand, và Orissa. Về mặt địa lý, vùng này nằm giữa Bắc Ấn Độ và Đông
**Cu li chậm Bengal** hay **cu li lớn** (danh pháp hai phần: **_Nycticebus bengalensis_**) là một loại cu li thuộc phân họ Cu li. Loại linh trưởng di chuyển chậm này có mắt to lồi,