✨Chiến tranh giải phóng Bangladesh

Chiến tranh giải phóng Bangladesh

Chiến tranh giải phóng Bangladesh ( Muktijuddho) diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó Ấn Độ tham dự) chống lại Tây Pakistan, và kéo dài trong chín tháng. Trong chiến tranh, diễn ra các hành động tàn bạo quy mô lớn, khiến 10 triệu người phải đi tị nạn và 30 triệu người phải chuyển chỗ.

Chiến tranh bùng nổ vào ngày 26 tháng 3 năm 1971, khi Quân đội Pakistan phát động một chiến dịch quân sự nhằm chống lại những người Bengal yêu cầu chính phủ quân sự Pakistan chấp thuận kết quả của cuộc tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên tại Pakistan, mà theo đó một đảng miền đông giành được chiến thắng. Phản ứng lại với chiến dịch, các chính trị gia và sĩ quan quân sự người Bengal tuyên bố nền độc lập của Bangladesh. Các lực lượng quân sự, bán quân sự, dân sự người Bengal hợp thành Mukti Bahini, tiến hành chiến tranh du kích chống lại lực lượng Pakistan. Chính phủ Bangladesh lưu vong được thành lập tại thành phố Calcutta của Ấn Độ.

Sau khi Pakistan tiến hành oanh tạc miền Bắc Ấn Độ, vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, Ấn Độ tham dự vào chiến tranh. Do phải đương đầu với cả hai mặt trận chiến tranh, các công sự của Pakistan nhanh chóng sụp đổ. Ngày 16 tháng 12, Liên quân Bangladesh và Ấn Độ đánh bại quân Pakistan tại phía đông. Sự kiện Pakistan đầu hàng dẫn đến kết quả là một lượng tù binh chiến tranh lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai.

Bối cảnh

Vào tháng 8 năm 1947, hai quốc gia Pakistan và Ấn Độ chính thức thành lập. Quốc gia tự trị Pakistan gồm hai khu vực riêng biệt về địa lý và văn hóa ở phía đông và phía tây, cách biệt qua Ấn Độ. Khu vực phía tây được gọi phổ biến là Tây Pakistan còn khu vực phía đông (nay là Bangladesh) ban đầu được gọi là Đông Bengal và sau được gọi là Đông Pakistan. Mặc dù dân số của hai khu vực gần như ngang bằng, song quyền lực chính trị tập trung tại Tây Pakistan và có nhận thức rộng rãi rằng Đông Pakistan bị lợi dụng về mặt kinh tế, gây nên nhiều bất bình. Việc quản lý hai lãnh thổ không liền kề cũng được xem là một thách thức. Một chính đảng Đông Pakistan (Liên minh Awami) giành thắng lợi trong tổng tuyển cử năm 1970, song giới cầm quyền tại Tây Pakistan từ chối trao lại quyền lực, làm gia tăng bất mãn chính trị và chủ nghĩa dân tộc văn hóa tại Đông Pakistan, lực lượng của giới cầm quyền dùng vũ lực đàn áp.

Hành động trấn áp mang tính bạo lực của Quân đội Pakistan khiến thủ lĩnh của Liên minh Awami là Sheikh Mujibur Rahman tuyên bố Đông Pakistan độc lập với tên gọi Bangladesh vào ngày 26 tháng 3 năm 1971. Tổng thống Pakistan Agha Mohammed Yahya ra lệnh cho Quân đội Pakistan khôi phục quyền lực của chính phủ trung ương, nội chiến bắt đầu. tràn vào miền Đông Ấn Độ. Điều này gây tranh luận cao độ, do tiếng Urdu chỉ là ngôn ngữ của người Muhajir (ở phía tây) và người Bihar (ở phía đông), mặc dù tiếng Urdu được các lãnh đạo chính trị và tôn giáo xúc tiến để trở thành ngôn ngữ chung của người Hồi giáo tại Ấn Độ. Ngôn ngữ được cho là một yếu tố quan trọng đối với văn hóa Hồi giáo của người Hồi giáo Ấn Độ; tiếng Hindi và chữ Devanagari thì được nhìn nhận là nền tảng của văn hóa Ấn Độ giáo. Đa số người phía tây của Quốc gia tự trị Pakistan nói tiếng Punjab, trong khi tiếng Bengal là ngôn ngữ của đại đa số người Đông Bengal (từ năm 1956 là Đông Pakistan). Tranh luận về ngôn ngữ cuối cùng lên đến đỉnh điểm khi Đông Bengal nổi dậy trong khi những nơi khác tại Pakistan vẫn yên ổn mặc dù tiếng Punjab là ngôn ngữ của đa số cư dân phía tây. Một số sinh viên và thường dân thiệt mạng trong một cuộc trấn áp của cảnh sát vào ngày 21 tháng 2 năm 1952.

Chênh lệch

Mặc dù Đông Pakistan có dân số đông hơn, song Tây Pakistan chiếm ưu thế trong chính trị quốc gia và nhận được ngân sách lớn hơn.

Người Bengal không có đại diện đầy đủ trong Quân đội Pakistan, các sĩ quan có nguồn gốc Bengal trong quân đội chỉ chiếm 5% vào năm 1965; trong số đó chỉ có một số là nắm giữ các chức vụ chỉ huy, và đa số nắm giữ các chức vụ kỹ thuật hoặc quản trị. Người Tây Pakistan cho rằng người Bengal không dũng cảm như người Pashtun và người Punjab; quan điểm "các Chủng tộc thượng võ" bị người Bengal cho là lố bịch và sỉ nhục.

Khác biệt chính trị

Mặc dù Đông Pakistan chiếm đa số ở mức thấp trong dân số quốc gia, song quyền lực chính trị vẫn nằm trong tay người Tây Pakistan. Do một hệ thống đại diện chỉ dựa theo dân số sẽ khiến tập trung quyền lực chính trị tại Đông Pakistan, người Tây Pakistan đưa ra kế hoạch "Một đơn vị" mà theo đó toàn bộ Tây Pakistan được xem là một tỉnh. Sau vụ ám sát thủ tướng đầu tiên của Pakistan là Liaquat Ali Khan vào năm 1951, quyền lực chính trị bắt đầu được trao cho Tổng thống Pakistan, và cuối cùng là giới quân sự.

Người Đông Pakistan nhận thấy rằng thế lực Tây Pakistan sẽ nhanh chóng hạ bệ bất kỳ Thủ tướng Pakistan đắc cử nào là người Đông Pakistan, như Khawaja Nazimuddin, Muhammad Ali Bogra, hay Huseyn Shaheed Suhrawardy. Sự ngờ vực của họ càng bị ảnh hưởng do chế độ độc tài quân sự của Ayub Khan (1958– 1969) và Yahya Khan (1969–1971), cả hai đều là người Tây Pakistan. Tình hình lên đến đỉnh điểm vào năm 1970, khi chính đảng Đông Pakistan lớn nhất là Liên minh Awami giành chiến thắng trong tổng tuyển cử quốc gia. Chính đảng này giành được 167 trong số 169 ghế phân cho Đông Pakistan, và do đó chiếm đa số trong số 313 ghế trong Quốc hội. Theo hiến pháp, điều này cho phép Liên minh Awami quyền thành lập một chính phủ. Tuy nhiên, lãnh đạo của Đảng Nhân dân Pakistan là Zulfikar Ali Bhutto (một người Sindh) từ chối cho lãnh đạo của Liên minh Awami là Sheikh Mujibur Rahman trở thành Thủ tướng Pakistan. Thay vào đó, người này đề xuất ý tưởng về việc có hai thủ tướng, mỗi người quản lý một phần. Đề xuất này gây phẫn nộ tại phía đông, vốn đã tức giận trước "một đơn vị". Zulfikar Ali Bhutto cũng từ chối chấp thuận đề xuất Sáu điểm của Sheikh Mujibur Rahman. Ngày 3 tháng 3 năm 1971, hai nhà lãnh đạo của hai phần cùng với Tổng thống Yahya Khan họp tại Dacca để quyết định vận mệnh của quốc gia. Sau khi các cuộc thương thảo không đem lại kết quả khả quan, Sheikh Mujibur Rahman kêu gọi một cuộc đình công toàn quốc. Zulfikar Ali Bhutto lo sợ xảy ra một cuộc nội chiến nên cử Mubashir Hassan thương thảo. ước tính khiến 300.000 đến 500.000 người thiệt mạng. Mặc dù không rõ về tổng thiệt hại về nhân mạng, song nó được cho là cơn bão nhiệt đới chí tử theo các ghi chép. Một tuần sau khi cơn bão Bhola đổ bộ, Tổng thống Yahya Khan thừa nhận rằng chính phủ của ông đã "sơ suất" và "sai lầm" trong việc điều khiển các nỗ lực cứu trợ do thiếu hiểu biết về mức độ của thiên tai.

Mười ngày sau khi cơn bão Bhola đổ bộ, 11 lãnh đạo chính trị tại Đông Pakistan phát hành một bản tuyên bố, trong đó buộc tội chính phủ "xao lãng, vô tình và hoàn toàn lãnh đạm". Họ cũng cáo buộc tổng thống làm giảm tầm quan trọng của vấn đề trong tin tức tường thuật. Ngày 19 tháng 11, các sinh viên tổ chức tuần hành tại Dacca để phản đối việc chính phủ phản ứng chậm.

Do xung đột giữa Đông và Tây Pakistan mở rộng trong tháng 3, các văn phòng tại Dacca của hai tổ chức chính phủ trực tiếp tham gia vào nỗ lực cứu trợ bị đóng cửa trong ít nhất hai tuần, đầu tiên là do tổng đình công và sau đó là lệnh cấm của Liên minh Awami. Do căng thẳng gia tăng, các nhân viên ngoại quốc được rút đi do lo ngại về bạo lực. Công tác cứu trợ vẫn tiếp tục, song các kế hoạch dài hạn bị rút ngắn.

Chiến dịch Đèn pha rọi

Quân đội Pakistan tiến hành một cuộc bình định bằng quân sự có kế hoạch, đặt hiệu là Chiến dịch Đèn pha rọi, bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 nhằm kiềm chế phong trào dân tộc chủ nghĩa Bengal nắm quyền kiểm soát các thành phố lớn vào ngày 26 tháng 3, và sau đó tiêu trừ toàn bộ thế lực đối lập về chính trị hay quân sự, trong vòng một tháng. Trước khi bắt đầu chiến dịch, toàn bộ ký giả ngoại quốc bị trục xuất có hệ thống khỏi Đông Pakistan.

Giai đoạn chính của Chiến dịch Đèn pha rọi kết thúc khi thành thị lớn cuối cùng trong tay người Bengal thất thủ vào trung tuần tháng 5. Chiến dịch cũng khởi đầu cho các hành động tàn bạo, với những vụ giết người có hệ thống khiến người Bengal hết sức tức giận. Truyền thông quốc tế và các sách tham khảo bằng tiếng Anh công bố số liệu thương vong khác biệt rất lớn, từ 5.000 đến 35.000 tại Dacca, và 200.000–3.000.000 tại Bangladesh.

Sheikh Mujibur Rahman bị Quân đội Pakistan bắt giữ. Yahya Khan bổ nhiệm Rahimuddin Khan chủ tọa một phiên tòa đặc biệt để truy tố Sheikh Mujibur Rahman với nhiều tội danh. Kết án của tòa chưa từng được công khai, song dù sao Yahya Khan cũng đình chỉ phán quyết. Các lãnh đạo khác của Liên minh Awami cũng bị bắt giữ, trong khi một vài người chạy khỏi Dacca để tránh bị bắt. Yahya Khan ban hành lệnh cấm đối với Liên minh Awami.

Một lãnh đạo của Awami là M A Hannan được thuật là người đầu tiên công bố tuyên bố độc lập trên sóng phát thanh vào ngày 26 tháng 3 năm 1971. Ngày 26 tháng 3 năm 1971 được xem là Ngày Độc lập chính thức của Bangladesh, và tên gọi Bangladesh có hiệu lực kể từ đó. Tháng 7 năm 1971, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi công khai gọi Đông Pakistan cũ là Bangladesh.

Chiến tranh giải phóng

Tháng 3-tháng 6

Đầu tiên, sự kháng cự là tự phát và thiếu tổ chức, và không được dự kiến sẽ kéo dài. Tuy nhiên, khi Quân đội Pakistan đàn áp dân cư, kháng cự gia tăng. Quân đội giải phóng (Mukti Bahini) trở nên tích cực hơn. Quân đội Pakistan tìm cách để dẹp yên họ, song ngày càng nhiều binh sĩ người Bengal đào thoát sang "quân đội Bangladesh" hoạt động ngầm. Các đơn vị của người Bengal này dần sáp nhập vào Mukti Bahini và được giúp đỡ về vũ khí từ Ấn Độ. Pakistan phản ứng bằng việc không vận hai sư đoàn bộ binh và tái cấu trúc lực lượng của họ. Họ cũng xây dựng các lực lượng bán quân sự Razakar, Al-Badr và Al-Sham, cũng như những người Bengal khác phản đối độc lập, và người Hồi giáo Bihar định cư từ khi phân chia.

Ngày 17 tháng 4 năm 1971, một chính phủ lâm thời được thành lập ở huyện Meherpur phía Tây Bangladesh, gần biên giới với Ấn Độ. Sheikh Mujibur Rahman được cử làm Tổng thống mặc dù ông đang bị Pakistan giam giữ, Syed Nazrul Islam làm quyền Tổng thống, Tajuddin Ahmed làm Thủ Tướng, và Muhammad Ataul Ghani Osmani làm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Bangladesh. Do giao tranh giữa Quân đội Pakistan và Mukti Bahini tăng lên, ước tính có khoảng 10 triệu người Bengal tìm cách tị nạn tại các bang Assam và Tây Bengal của Ấn Độ.

Tháng 6-tháng 9

thumb|11 quân khu

Tướng Muhammad Ataul Ghani Osmani có quan điểm khác biệt với giới lãnh đạo của Ấn Độ đối với vai trò của Mukti Bahini trong xung đột. Giới lãnh đạo Ấn Độ ban đầu cho rằng lực lượng Bengal nên được huấn luyện thành một nhóm du kích tinh nhuệ quy mô nhỏ gồm 8.000 thành viên, dẫn đầu là các binh sĩ của trung đoàn Đông Bengal còn sống hoạt động trong các chi bộ nhỏ quanh Bangladesh để tạo thuận tiện cho sự can thiệp cuối cùng của Ấn Độ, song chính phủ Bangladesh lưu vong và Tướng Ataul Ghani Osmani thì ủng hộ chiến lược sau:

  • Lực lượng Bengal quy ước sẽ chiếm giữ các khu vực công sự bên trong Bangladesh và sau đó chính phủ Bangladesh sẽ thỉnh cầu công nhận ngoại giao và can thiệp từ quốc tế. Ban đầu, Mymensingh được lựa chọn để tiến hành chiến dịch này, song Osmani sau đó quyết định chọn Sylhet.
  • Gửi tối đa số du kích vào trong Bangladesh nhanh nhất có thể với các mục tiêu sau: Tăng thương vong cho Pakistan bằng cách đột kích và phục kích. Làm tê liệt hoạt động kinh tế bằng cách đánh các nhà máy điện, đường sắt, kho lưu trữ và mạng lưới truyền thông. Tiêu trừ khả năng di động của quân Pakistan bằng cách cho nổ cầu cống, kho nhiên liệu, xe lửa và tàu thủy. Mục tiêu chiến lược là khiến cho quân Pakistan dàn trải lực lượng của họ trong tỉnh, để có thể tiến hành tiến công tại các phân đội Pakistan nằm cô lập.

Bangladesh được chia thành 11 quân khu vào tháng 7, mỗi quân khu có một sĩ quan chỉ huy được lựa chọn từ các sĩ quan đào ngũ từ quân Pakistan sang Mukti Bahini để chỉ huy các hoạt động du kích và huấn luyện chiến sĩ. Hầu hết các trại huấn luyện của họ nằm gần khu vực biên giới và hoạt động với sự trợ giúp từ Ấn Độ. Quân khu 10 nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng tư lệnh M. A. G. Osmani và gồm có cả đặc công hải quân cùng lực lượng đặc biệt. Ba lữ đoàn (11 tiểu đoàn) được kiến thiết cho chiến tranh quy ước; một lực lượng du kích lớn được đào tạo.

Ba lữ đoàn (8 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn pháo binh) được đưa vào chiến đấu từ tháng 7 đến tháng 9. Trong tháng 6-tháng 7, Mukti Bahini tái tập hợp ở bên kia biên giới với sự hỗ trợ của Ấn Độ thông qua Chiến dịch Jackpot và bắt đầu đưa 2000 – 5000 quân du kích qua biên giới, được gọi là cuộc Tấn công Gió mùa, song không đạt được mục tiêu của mình. Quân chính quy Bengal cũng tấn công tại Mymensingh, Comilla và Sylhet, song kết quả là khác nhau. Nhà cầm quyền Pakistan kết luận rằng họ đã ngăn chặn thành công Chiến dịch Gió mùa, một quan sát gần chính xác.

Các chiến dịch du kích giảm bớt trong giai đoạn đào tạo, song tăng tốc sau tháng 8. Các mục tiêu kinh tế và quân sự tại Dacca bị tiến công. Trong Chiến dịch Jackpot, đặc công hải quân Bengal đặt mìn và cho nổ tung các tàu bỏ neo tại Chittagong, Mongla, Narayanganj và Chandpur vào ngày 15 tháng 8 năm 1971.

Tháng 10-tháng 12

Lực lượng quy ước Bangladesh tiến công các đồn biên giới, như tại Kamalpur, Belonia và Boyra. Các vụ du kích tấn công tăng cao, cùng xu hướng với các hành động trả đũa nhắm vào thường dân của quân Pakistan và Razakar. Quân Pakistan được tăng cường với tám tiểu đoàn từ Tây Pakistan. Binh sĩ Bangladesh thậm chí còn từng tạm chiếm các sân bay tại Lalmonirhat và Shalutikar.

Ấn Độ tham dự

Cảnh giác với sự tham dự ngày càng lớn của Ấn Độ, vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, Không quân Pakistan tiến hành Chiến dịch Thành Cát Tư Hãn nhằm tấn công phủ đầu các căn cứ của Không quân Ấn Độ. Cuộc tấn công được mô phỏng theo Chiến dịch Tiêu điểm của Không quân Israel trong Chiến tranh Sáu ngày, và mục tiêu là vô hiệu hóa các máy bay của Không quân Ấn Độ trên mặt đất. Ấn Độ nhìn nhận cuộc tấn công là hành động gây hấn vô cớ, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971.

Phản ứng với cuộc tấn công, cả Ấn Độ và Pakistan đều chính thức thừa nhận "sự tồn tại một tình trạng chiến tranh giữa hai quốc gia", song không chính phủ nào tuyên chiến chính thức.

Ba quân đoàn của Ấn Độ tham gia vào chiến tranh giải phóng Đông Pakistan. Họ nhận được hỗ trợ từ ba lữ đoàn lân cận của Mukti Bahini. Cuộc chiến trở nên quá sức đối với Lục quân chỉ có ba sư đoàn của Pakistan. Người Ấn Độ nhanh chóng tràn qua Bangladesh, giao chiến có chọn lựa hoặc bỏ qua các đồn lũy được phòng thủ kiên cố. Lực lượng Pakistan không thể đánh chặn có hiệu quả cuộc phản công của Ấn Độ, do họ được dàn thành các đơn vị nhỏ quanh biên giới để đánh chặn các cuộc tấn công du kích của Mukti Bahini. Không thể phòng thủ Dacca, Pakistan đầu hàng vào ngày 16 tháng 12 năm 1971.

Đầu hàng và hậu quả

Ngày 16 tháng 12 năm 1971, Trung tướng Amir Abdullah Khan Niazi, sĩ quan chỉ huy của lực lượng Lục quân Pakistan đóng tại Đông Pakistan ký vào văn kiện đầu hàng. Vào thời điểm đó, chỉ có vài quốc gia công nhận ngoại giao Bangladesh. Trên 93.000 binh sĩ Pakistan đầu hàng lực lượng Ấn Độ, khiến đây trở thành cuộc đầu hàng lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Bangladesh tìm cách gia nhập Liên Hợp Quốc và nhận hầu hết phiếu ủng hộ, song Trung Quốc phủ quyết điều này do Pakistan là đồng minh chủ chốt của họ. Mãi đến năm 1974, sau khi Bangladesh được Pakistan công nhận, Trung Quốc mới chấm dứt phủ quyết và cho phép nước này gia nhập. Hoa Kỳ cũng là một đồng minh chủ chốt của Pakistan và nằm trong số các quốc gia cuối cùng chấp thuận công nhận Bangladesh. Để đảm bảo cho một quá trình chuyển tiếp êm thấm, Ấn Độ và Pakistan ký kết Hiệp định Simla năm 1972. Hiệp định đảm bảo rằng Pakistan công nhận tình trạng độc lập của Bangladesh để đổi lấy các tù binh chiến tranh Pakistan. Ấn Độ đối xử với các tù nhân chiến tranh này theo Công ước Genève có từ năm 1925. Ấn Độ phóng thích trên 93.000 tù binh chiến tranh Pakistan trong năm tháng.

Trước chiến bại và một nửa quốc gia ly khai, giới lãnh đạo quân sự và dân sự Pakistan sửng sốt. Chế độ độc tài của Yahya Khan sụp đổ và mở đường cho Zulfikar Ali Bhutto nắm quyền lực. Tướng Niazi bị nghi ngờ và khinh miệt khi ông trở về Pakistan. Chiến tranh cũng bộc lộ nhược điểm của học thuyết chiến lược mà Pakistan tuyên bố, đó là "bảo vệ Đông Pakistan nằm tại Tây Pakistan".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh giải phóng Bangladesh** ( _Muktijuddho_) diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó
**Người Pakistan ở Bangladesh**, hay **người Pakistan kẹt ở Bangladesh** (, , tiếng Anh: _Stranded Pakistanis in Bangladesh_) là người nhập cư Hồi giáo nói tiếng Urdu đã định cư tại Đông Pakistan, nay là
Kể từ khi Ấn Độ bị chia cắt vào năm 1947 và các lãnh thổ tự trị Ấn Độ và Pakistan được thành lập, giữa hai quốc gia này đã và đang xảy ra nhiều
**Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971** là cuộc đối đầu quân sự giữa Ấn Độ và Pakistan xảy ra trong cuộc chiến tranh giải phóng ở Đông Pakistan từ ngày 3 tháng 12 năm 1971
**Giải Nobel Hòa bình 1973** là giải thưởng được trao chung cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger và đại diện Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Đức Thọ "vì đã cùng
**Phong trào năm 1968** ở Pakistan là một phần trong cuộc biểu tình chống lại chế độ độc tài của tướng Ayub Khan do giới sinh viên và công nhân lãnh đạo, thu hút tất
Lịch sử văn minh của Bangladesh bắt đầu từ hơn bốn thiên niên kỷ, từ Thời đại đồ đồng đá. Lịch sử được ghi chép lại ban đầu của đất nước thể hiện sự kế
**Bangladesh** ( , , nghĩa là "Đất nước Bengal"), tên chính thức là **Cộng hoà Nhân dân Bangladesh** (tiếng Bengal: গণপ্রজাতন্ত্রী বাংলাদেশ), là một quốc gia có chủ quyền nằm ở vùng Nam Á. Bangladesh giáp
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
Cuộc **nổi loạn của Lực lượng biên phòng Bangladesh** là một cuộc nổi dậy diễn ra tại thủ đô Dacca từ 25 đến 26 tháng 2 năm 2009 do Lực lượng Vũ trang Súng trường
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
Tử hình ở Bangladesh là một hình thức trừng phạt hợp pháp dành cho bất kỳ ai trên 16 tuổi, tuy nhiên trên thực tế, hình phạt này sẽ không được áp dụng cho những
thumb|Tuần hành ngày 21 tháng 2 năm 1952 tại [[Dhaka]] **Phong trào ngôn ngữ Bengal** là một phong trào chính trị tại Đông Bengal (nay là Bangladesh) chủ trương công nhận tiếng Bengal là một
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Xe tăng Centurion** được giới thiệu năm 1945, là xe tăng chủ lực của quân đội Anh giai đoạn sau Thế chiến thứ hai. Nó được xem là một trong những thiết kế tăng thành
**Mil Mi-4** hay gọi tắt là **Mi-4** (tên hiệu NATO là **_Hound_**, nghĩa là _Chó săn_) máy bay trực thăng vận tải hạng nặng quân sự và dân sự của Liên Xô. Máy bay này
**Cảnh sát Bangladesh** hay **Công an Bangladesh** (tiếng Bengal: বাংলাদেশ পুলিশ, tiếng Anh: _Bangladesh Police_, viết tắt: BP) là cơ quan thực thi pháp luật quốc gia của Bangladesh, hoạt động trực thuộc Bộ Nội
**_Sangram_** (tạm dịch: _Đấu tranh_) là bộ phim chính kịch chiến tranh của Bangladesh công chiếu vào năm 1974, do Chashi Nazrul Islam đạo diễn và Kazi Sobuz sản xuất. Nội dung phim dựa trên
**Sheikh Mujibur Rahman** (); 17 tháng 3 năm 1920 – 15 tháng 8 năm 1975), tên rút ngắn là **Sheikh Mujib** hoặc chỉ **Mujib**, là một chính trị gia người Bangladesh. Ông là cha đẻ
**Jatiya Sangsad** ("Nghị viện Quốc gia"; _Jatiyô Sôngsôd_), thường được gọi đơn giản là **_Sangsad_** hoặc **JS**, là cơ quan lập pháp cao nhất của Bangladesh. Quốc hội Bangladesh hiện tại gồm 350 ghế, trong
**MG-42** (_Maschinengewehr 42_ – Súng máy kiểu năm 1942) là súng máy đa năng hạng nhẹ dùng đạn cỡ 7,92×57mm do Đức Quốc xã thiết kế và phát triển, được chấp nhận trang bị cho
**Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất** (tiếng Trung: 第一次鸦片战争; bính âm: _Dìyīcì Yāpiàn Zhànzhēng_; tiếng Anh: _First Opium War_), còn được gọi là **Chiến tranh thuốc phiện lần 1** hay **Chiến tranh Anh-Thanh**,
**Satyajit Ray** ( ) (2 tháng 5 năm 1921 – 23 tháng 4 năm 1992) là nhà làm phim tiếng Bengali nổi tiếng của Ấn Độ. Ông được xem là tác giả phim hạng nhất
**Hải cảng Chittagong** () là bến cảng bận rộn nhất trên bờ biển vịnh Bengal, và là cảng biển thứ hai trong khu vực tổng thể của các quốc gia lệ thuộc vào vịnh Bengal.
**Đông Pakistan** (, ), là một tỉnh của Pakistan thành lập vào ngày 14 tháng 8 năm 1947, tồn tại cho đến ngày 16 tháng 12 năm 1971 và hiện là quốc gia độc lập
phải|nhỏ|362x362px| Một bản đồ phác thảo các di tích lịch sử ở Pakistan **Lịch sử của Pakistan** bao gồm khu vực Thung lũng sông Ấn , trải dài khắp phía tây của tiểu lục địa
**Savar** ( _Savar_ hoặc _Shabhar_) là một phó huyện (upazila) thuộc huyện Dhaka, phân khu Dhaka, Bangladesh. Savar nằm cách thủ đô Dhaka khoảng về phía tây bắc. Phó huyện này nổi tiếng với Jatiyo
nhỏ|phải|Ở [[Việt Nam hiện nay, Hồ Chí Minh được tôn kính là _Vị cha già của dân tộc_, ông là người khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lãnh đạo
**Phân biệt chủng tộc ở châu Á** bắt nguồn từ những sự kiện đã xảy ra ở khắp nơi từ hàng ngàn năm trước cho đến nay. ## Bangladesh Vào năm 2015, Elias Mollah, thành
**Tây Bengal** (, , nghĩa là "tây bộ Bengal") là một bang tại khu vực đông bộ của Ấn Độ. Đây là bang đông dân thứ tư toàn quốc, với trên 91 triệu dân theo
Đại tá Hải quân **Mohan Narayan Rao Samant**, MVC (1930-2019) là một sĩ quan Hải quân Ấn Độ, ông đã được trao giải Maha Vir Chakra, giải thưởng dũng cảm thời chiến tranh có giá
Chiếc **North American F-86 Sabre** (đôi khi được gọi là **Sabrejet**) là một máy bay chiến đấu có tốc độ cận âm được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ. Chiếc F-86 được phát triển
**Archer Kent Blood** (20 tháng 3 năm 1923 – 3 tháng 9 năm 2004) là một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Bangladesh. Ông đảm nhận vị trí Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Dhaka,
Tập tin:1970s decade montage.jpg|Từ trên cùng bên trái theo chiều kim đồng hồ: Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vỡi cử chỉ V sign sau khi ông từ chức từ **vụ bê bối Watergate**; The
Việc trao Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 cho Qatar đã tạo ra một số lo ngại và tranh cãi liên quan đến cả sự phù hợp của Qatar với tư cách là
thumb|upright|Tranh của [[Sandro Botticelli: _Sự ra đời của Venus_ (khoảng 1485)]] nhỏ|phải|Biểu tượng của sinh vật [[cái trong sinh học và nữ giới, hình chiếc gương và chiếc lược. Đây cũng là biểu tượng của
**Quan hệ Trung Quốc - Pakistan** bắt đầu vào năm 1950 khi Pakistan là một trong những nước đầu tiên tham gia quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa dân quốc (Đài Loan)
[[Tập tin:Comprehensive Scale of Rape (2018) - LRW-SCALE-11.svg|thumb|Bản đồ thế giới hiển thị chỉ số tổng hợp về nạn cưỡng hiếp phụ nữ vào năm 2018, dữ liệu của WomanStats Project. ]] **Hiếp dâm**, **hãm
Chủ nghĩa ** Đế quốc Xô viết** được sử dụng bởi những người đối lập chỉ trích Liên Xô và những người thuộc các dân tộc thiểu số ở Liên Xô để nhắc về chính
**Phong trào độc lập Ấn Độ** bao gồm các hoạt động và ý tưởng nhằm chấm dứt Công ty Đông Ấn (1757-1858) và Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh (1858-1947) ở tiểu lục địa Ấn
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Thủ tướng Ấn Độ** () là người đứng đầu chính phủ của Ấn Độ. Thủ tướng và Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quyền hành pháp tuy tổng thống Ấn Độ trên danh nghĩa nắm
**Thủ tướng Pakistan** (tiếng Urdu: , ) là người đứng đầu chính phủ của Pakistan. Thủ tướng Pakistan lãnh đạo Chính phủ Pakistan, Hạ viện, đứng đầu Hội đồng lợi ích chung, Nội các, quản
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
**Xe tăng hạng trung kiểu 59** (tiếng Anh: **Type 59**, tên công nghiệp tại Trung Quốc: **WZ120**) hay **Xe tăng chủ lực kiểu 59** là một xe tăng chiến đấu chủ lực do Trung Quốc
**USS _Bausell_ (DD-845)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
thumb|Một bức khắc [[mezzotint của Fort William, Calcutta, thủ phủ Xứ chủ quản Bengal ở Ấn Độ thuộc Anh năm 1735.]] **Các tỉnh Ấn Độ thuộc Anh**, trước đó là các **xứ chủ quản** (presidencies)
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
**_Mujahideen_** hoặc **_mujahidin_** (, __ là hình thức số nhiều của **_Mujahid_** , 'người tham gia thánh chiến'), một thuật ngữ tiếng Ả Rập nói chung về những người du kích Hồi giáo tham gia
**John Sidney McCain III ** (29 tháng 8 năm 1936 – 25 tháng 8 năm 2018) là Thượng nghị sĩ thâm niên của Hoa Kỳ, người tiểu bang Arizona và là người được Đảng Cộng