✨North American F-86 Sabre
Chiếc North American F-86 Sabre (đôi khi được gọi là Sabrejet) là một máy bay chiến đấu có tốc độ cận âm được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ. Chiếc F-86 được phát triển trong những năm 1940 sau khi kết thúc Thế Chiến II và là một trong những máy bay tiêm kích phản lực được các nước Phương Tây sản xuất với số lượng nhiều nhất trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Một biến thể của chiếc F-86 được sản xuất tại Canada dưới tên gọi Canadair Sabre và được bố trí tại không lực của nhiều nước thuộc Khối NATO ngoài Canada. Chiếc máy bay này cũng được sản xuất với số lượng nhỏ tại Australia, Ý, và Nhật Bản.
Thiết kế và phát triển
Những đề nghị ban đầu nhằm đáp ứng một yêu cầu của Không lực Lục quân Hoa Kỳ về một kiểu máy bay tiêm kích/tiêm kích hộ tống/tiêm kích-ném bom một chỗ ngồi tầm cao hoạt động ban ngày được thực hiện vào cuối năm 1944, và được biến đổi từ thiết kế của kiểu máy bay cánh thẳng FJ Fury được thiết kế cho Hải quân Hoa Kỳ. Các yêu cầu cao về tính năng bay được thỏa mãn nhờ áp dụng một kiểu cánh xuôi 35° với các mép cánh trước tự động vào trong thiết kế; kết quả là việc sản xuất hàng loạt đã không thể bắt đầu trước khi kết thúc Thế Chiến II. Chiếc nguyên mẫu XP-86, sẽ trở thành kiểu F-86 Sabre, bay chuyến bay đầu tiên ngày 1 tháng 10 năm 1947.
Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược Không quân Hoa Kỳ đã sử dụng chiếc F-86 Sabre từ năm 1949 đến năm 1950. Những chiếc F-86 được bố trí đến Không đoàn Ném bom 22, Không đoàn Tiêm kích 1 và Không đoàn Tiêm kích Đánh chặn 1.
Chiếc F-86 được sản xuất cả như là một máy bay tiêm kích đánh chặn và là một máy bay tiêm kích-ném bom. Có nhiều phiên bản được giới thiệu trong suốt vòng đời sản xuất của nó, với những cải tiến và nhiều kiểu vũ khí khác nhau được trang bị. Ví dụ như, kiểu động cơ J47-GE-7 trang bị cho phiên bản F-86A chỉ tạo ra một lực đẩy 5.200 lbf (23 kN) trong khi động cơ General Electric J73-GE-3 của phiên bản F-86h có công suất đẩy 9.250 lbf. Chiếc F-86 là máy bay chiến đấu tiêm kích chủ lực của Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên, với một số lượng đáng kể của ba phiên bản đầu tiên được sản xuất hàng loạt tham gia hoạt động chiến đấu.
Phiên bản tiêm kích-ném bom (F-86H) có thể mang đến 900 kg (2.000 lb) bom, bao gồm một thùng nhiên liệu phụ có thể chứa napalm.
Cả phiên bản tiêm kích đánh chặn và phiên bản tiêm kích-ném bom đều được trang bị sáu súng máy M3 Browning 12,7 mm (0,50 in) trước mũi (những phiên bản sau của kiểu F-86H trang bị bốn pháo 20 mm thay cho các khẩu súng máy). Các khẩu súng được phối hợp để hội tụ ở 300 m (1.000 ft) phía trước máy bay với một quả đạn sáng xen kẻ mỗi năm quả đạn. Đa số loại đạn sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên là kiểu đạn cháy xuyên thép (API) chứa magnesium, được thiết kế để phát lửa khi va đập, nhưng tính năng này khá kém ở độ cao trên 35.000 ft vì nồng độ oxygen không đủ để duy trì sự cháy ở độ cao này. Ban đầu được trang bị thiết bị ngắm bắn tính toán thủ công Mark 18, những phiên bản sau được trang bị radar dò tầm xa ngắm bắn A-1CM để tính toán tầm xa của mục tiêu. Thiết bị này tỏ ra là một ưu thế trước các đối thủ MiG tại Triều Tiên, và nó cũng được trang bị cho những máy bay tiêm kích siêu âm sau này như F-100 Super Sabre và F-105 Thunderchief.
Rocket 70 mm (2,75 in) được sử dụng trên một số máy bay trong thực tập tác xạ, nhưng rocket 127 mm (5 in) sau này được đưa vào sử dụng trong chiến đấu. F-86 cũng có thể gắn được hai thùng nhiên liệu phụ vứt được (sau này nâng lên bốn thùng trên kiểu F-86F bắt đầu từ năm 1953) giúp máy bay có tầm bay xa hơn.
Chiếc F-86 Sabre cũng được chế tạo theo giấy phép nhượng quyền bởi Canadair tại Montreal như là kiểu Canadair Sabre. Biến thể cuối cùng của Canadair Sabre, kiểu Mk 6, được đánh giá chung là một trong những phiên bản Sabre có khả năng nhất trong mọi kiểu được sản xuất ở tất cả các nơi. Chiếc Sabre cuối cùng được sản xuất bởi Canadair Ltd. (Sabre #1815) giờ đây được trưng bày trong bộ sưu tập của Bảo tàng Hàng không Tây Canada (WCAM) tại Winnipeg, Canada sau khi được trao tặng bởi Không quân Pakistan.
Chiếc F-86 các phiên bản thông thường có giá ~178.000 USD thời giá năm 1950 (tương đương 2,3 triệu USD theo thời giá năm 2018). Trong khi đó, một chiếc P-51D Mustang trong Thế chiến 2 (năm 1945) có giá tương đương 500.000 USD thời giá năm 2018. Như vậy chiếc F-86 đắt hơn 4,5 lần so với người tiền nhiệm của nó
Lịch sử hoạt động
Chiến tranh Triều Tiên
nhỏ|phải|Chiếc Sabre trưng bày tại [[Bảo tàng Quốc gia Hàng không và Không quân trước đây thuộc Phi đoàn Tiêm kích 4.]] Chiếc F-86 Sabre được Không quân Hoa Kỳ đưa vào phục vụ từ năm 1949, tham gia Phi đội 49 "Hat-in-the-Ring" thuộc Phi đoàn Tiêm kích 1 và trở thành máy bay tiêm kích phản lực chủ yếu sử dụng trong không chiến tại Chiến tranh Triều Tiên. Khi chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-15 Xô Viết được đưa vào hoạt động tại Triều Tiên vào tháng 11 năm 1950, nó vượt hơn tất cả những máy bay đang hoạt động trong các lực lượng thuộc Liên Hợp Quốc, ba phi đội F-86 được vội vã gửi đến Viễn Đông vào tháng 12. Chiếc F-86 có thể lượn vòng và bổ nhào nhanh hơn chiếc MiG-15, chiếc MiG-15 lại trội hơn F-86 về trần bay, gia tốc và tốc độ lên cao (đặc biệt cho đến khi phiên bản F-86F được đưa vào hoạt động vào năm 1953); những chiếc MiG cất cánh từ những sân bay tại Mãn Châu, và do các phi công Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Không quân Xô Viết điều khiển, đọ sức với hai phi đội thuộc Phi đoàn Tiêm kích 4 có căn cứ tiền phương tại K-14, Kimpo, Nam Triều Tiên. Cho dù những kết quả thực tế như thế nào, rõ ràng là các phi công F-86 không thể có nhiều chiến thắng như vậy trên các phi công Xô Viết lái MiG-15 được huấn luyện kỹ càng hơn. Lúc đầu các phi công Xô Viết lái phần lớn những chiếc MiG-15 tham chiến tại Triều Tiên, nhưng số phi công Bắc Triều Tiên và Trung Quốc ngày càng tích cực hoạt động hơn khi chiến tranh tiếp diễn. Xô Viết và đồng minh của họ thỉnh thoảng hay tranh chấp ưu thế trên không tại "Hành lang MiG", một khu vực gần cửa sông Áp Lục (biên giới giữa Triều Tiên và Trung Quốc) nơi mà các cuộc không chiến ác liệt nhất đã diễn ra. Cánh ổn định ngang di động toàn bộ của phiên bản F-86E đã giúp cho chiếc Sabre có ưu thế quan trọng trên chiếc MiG-15. Phi đội 2 Không quân Nam Phi cũng sử dụng F-86 và hoạt động nổi bật trong Phi đoàn Tiêm kích Ném bom 18.
Cho đến khi chấm dứt cuộc xung đột, Mỹ tuyên bố các phi công F-86 đã bắn rơi được 792 máy bay MiG trong khi thiệt hại 78 chiếc Sabre, đạt tỉ lệ thắng:thua là 10:1. Nhưng trong nội bộ, Không quân Mỹ xác nhận rằng các phi công của họ trên thực tế chỉ hạ được khoảng 200 chiếc MiG
Báo cáo chính thức sau chiến tranh của Không quân Hoa Kỳ đã ước tính lại để loại bỏ bớt các tuyên bố phóng đại của phi công Mỹ, và báo cáo này đưa ra con số tiêu diệt được 379 chiếc MiG trong khi mất 103 chiếc F-86 Sabre đưa đến một tỉ lệ thắng:thua chỉ gần bằng 3,7:1. Nghiên cứu hiện đại năm 2005 do Dorr, Lake, và Thompson thực hiện cho biết tỷ lệ thắng:thua lại giảm hơn nữa, thực sự chỉ gần bằng 2:1 Một nghiên cứ năm 2008 của RAND dựa trên các số liệu công bố gần đây đã kết luận rằng tỷ lệ thắng:thua thực tế cho F-86 chỉ đạt khoảng 1,8:1, và có khả năng là chỉ đạt 1,3:1 khi chống lại MiG do các phi công Liên Xô điều khiển (các phi công Triều Tiên, Trung Quốc nhìn chung là có trình độ thấp hơn phi công Liên Xô) nhỏ|phải|Phi công [[Ách (phi công)|"Ách", Đại tá Harrison R. Thyng, cùng chiếc F-86 Sabre của anh]] Phía Xô Viết thì thống kê rằng MiG-15 của họ đã bắn rơi 1.038 máy bay đối thủ, bao gồm 595 chiếc F-86, 178 chiếc F-84, 103 chiếc F-80, 23 chiếc F-51, 10 chiếc F-94, 66 chiếc máy bay ném bom hạng nặng B-29, 28 chiếc Gloster Meteors và hàng chục máy bay các loại khác Một thống kê khác cho con số cao hơn chút ít, theo đó MiG-15 của không quân Liên Xô bắn rơi 1.097 máy bay đối thủ, bao gồm 647 chiếc F-86, 185 chiếc F-84, 118 chiếc F-80, 28 chiếc F-51, 11 chiếc F-94, 65 chiếc máy bay ném bom hạng nặng B-29, 26 chiếc Gloster Meteors và 17 máy bay các loại khác. Đổi lại, đã có 335 chiếc MiG-15 của không quân Liên Xô đã bị mất trong không chiến hoặc bị tai nạn, khiến 120 phi công tử trận Phía Trung Quốc bị mất 224 chiếc MiG-15, 3 chiếc La-11 và 4 chiếc Tu-2 trong toàn cuộc chiến, đổi lại phi công Trung Quốc tuyên bố đã bắn rơi 211 chiếc F-86, 72 chiếc F-84 và F-80, và 47 máy bay các loại khác 67 phi công Liên Xô, 7 phi công Trung Quốc và 2 phi công Triều Tiên đã được ghi nhận đạt cấp Aces (bắn hạ từ 5 máy bay địch trở lên).
Theo dữ liệu chính thức của Hoa Kỳ ("USAF Statistics Digest FY1953") công bố năm 2012, USAF đã mất 250 máy bay chiến đấu F-86 tại Triều Tiên. Trong đó, 184 chiếc đã mất trong chiến đấu và 66 chiếc bị mất do các nguyên nhân ngoài chiến đấu 6 chiếc F-86s của Nam Phi cũng bị mất Như vậy tổng cộng đã có 256 chiếc F-86 bị rơi trong chiến tranh Triều Tiên.
Về tổng tổn thất, không quân Mỹ thống kê tại Triều Tiên họ bị mất 1.466 máy bay trong chiến đấu và 516 máy bay do các nguyên nhân ngoài chiến đấu (chưa tính thiệt hại của các lực lượng không quân đồng minh của Mỹ như Anh, Úc, Nam Phi...). Chia theo loại máy bay thì tổn thất bao gồm 79 chiếc máy bay ném bom hạng nặng B-29 Superfortress, 228 chiếc máy bay ném bom hạng trung B-26, 332 chiếc P-51 Mustang, 368 chiếc F-80, 358 chiếc F-84, 250 chiếc F-86... cùng nhiều loại máy bay khác
Trận chiến mà tên lửa Sidewinder được đưa ra sử dụng lần đầu tiên là vào ngày 24 tháng 9 năm 1958 khi những chiếc Sabre Trung Hoa Dân Quốc thành công trong việc bắn hạ mười máy bay MiG và hai chiến công có thể mà không bị thiệt hại gì cho họ. Trong các trận không chiến bên trên đảo Kim Môn và Mã Tổ kéo dài một tháng, các phi công Đài Loan bắn rơi không ít hơn 29 máy bay MiG và có thể thêm tám chiếc nữa, trong khi chỉ bị thiệt hại hai chiếc F-84G và không mất chiếc Sabre nào. Dù chiếc MiG-15 có ưu thế hơn hẳn về độ cơ động, nhưng nó vẫn chỉ có pháo chứ không có tên lửa như máy bay đối phương, nên khi chiến đấu đối diện sẽ bị yếu thế hơn nhiều.
Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1965
Chiếc F-86 được đưa vào hoạt động tại Không quân Pakistan (PAF) vào năm 1954 với lô đầu tiên gồm 120 máy bay. Đa số máy bay thuộc cấu hình phiên bản F-86F-40 ngoại trừ một số ít thuộc tiêu chuẩn F-86F-35. Chiếc F-86 được sử dụng trong chín phi đội PAF trong nhiều thời điểm khác nhau. Trong cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1965, những chiếc F-86 trở thành chỗ dựa chính của Không quân Pakistan và có được ít ưu thế về chất lượng so với một lực lượng Không quân Ấn Độ (IAF) đông hơn.
Trong những trận không chiến diễn ra trong cuộc chiến này, Không quân Pakistan thông báo đã bắn rơi 15 máy bay của Không quân Ấn Độ, bao gồm chín chiếc Hawker Hunter, bốn chiếc De Havilland Vampire và hai chiếc Folland Gnat. Tuy nhiên phía Ấn Độ chỉ thừa nhận bị thiệt hại 14 máy bay chiến đấu do F-86 Pakistan gây ra. Những chiếc F-86 có được lợt thế là được trang bị tên lửa AIM-9B/GAR-8 Sidewinder trong khi không có chiếc máy bay Ấn Độ đối địch nào có được khả năng này. Dù vậy, Không quân Ấn Độ thông báo đã bắn rơi 13 máy bay Sabre của Pakistan trong không chiến. Số liệu này bị Không quân Pakistan phủ nhận. Họ thừa nhận đã bị mất tổng cộng 13 máy bay F-86 Sabre trong suốt cuộc chiến tranh kéo dài 23 ngày này, nhưng chỉ có bảy chiếc trong số đó bị bắn rơi trong không chiến. Tuy nhiên Không quân Pakistan cũng phủ nhận các thông tin này và chấp nhận bị thiệt hại ba chiếc F-86 Sabre bởi những chiếc Gnat.. Một lần nữa, con số này lại bị phủ nhận. Ấn Độ chỉ thừa nhận bị thiệt hại khoảng 22 máy bay trên mặt đất do bị các máy bay F-86 và máy bay ném bom B-57 Canberra của Không quân Pakistan gây ra. Phi đội 14 Không quân Pakistan sử dụng những chiếc F-86 Sabre đã có biệt danh trong Không quân là "Tailchoppers" vì những hành động dũng cảm trong Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1965.
Thiếu tá Muhammad Mahmood Alam là một phi công "Ách" của Không quân Pakistan trong cuộc chiến này. Ông được chính thức công nhận đã bắn hạ được năm máy bay Hunter đối phương trong vòng một phút, cho đến nay vẫn là một kỷ lục. Tổng cộng ông có chín chiến công không chiến và gây hư hại hai chiếc khác trong thành tích của mình.
Trong cuộc chiến này, Hoa Kỳ đã cấm vận việc mua bán F-86 cho phía Pakistan. Tuy nhiên, Pakistan đã duy trì đội máy bay F-86 của họ thông qua việc mua khoảng 90 chiếc Sabre của Iran và Sabre Mk 6 CL-13 (F-86 Sabre do Canada sản xuất), sẽ tạo nên cột trụ của lực lượng Không quân hoạt động trong cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971 sau này.
Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971
nhỏ|phải|Các sĩ quan Ấn Độ đứng bên cạnh những chiếc Sabre chiếm được tại phi trường [[Dhaka. Cho dù có 11 chiếc Sabre tại Đông Pakistan bị Không quân Pakistan vô hiệu hóa trong Cuộc chiến giải phóng Bangladesh để ngăn cho chúng không bị đối phương sử dụng, một số chiếc được phục hồi nguyên vẹn và sau này được Không quân Bangladesh sử dụng.]] Những chiếc Canadair Sabres (Mark 6) mà Pakistan sở hữu được từ tồn kho của Không quân Đức thông qua Iran, là chỗ dựa chính của Không quân Pakistan (PAF) khi các hoạt động chiến đấu ban ngày trong cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971, và bị thử thách đối đầu mối đe dọa của Không quân Ấn Độ. Cho dù được sở hữu thêm những kiểu máy bay mới hơn như Mirage III và Shenyang F-6, chiếc Sabre Mark VI (được chấp nhận rộng rãi như là máy bay "không chiến" tốt nhất vào thời đó) cùng với những chiếc F-86F cũ hơn của Không quân Pakistan, phải đảm trách phần lớn những hoạt động trong cuộc chiến, do số lượng ít ỏi của những chiếc Mirage và tình trạng chưa sẵn sàng chiến đấu của những chiếc Shenyang F-6 Tuy nhiên, tại Đông Pakistan (Bangladesh ngày nay) chỉ có một phi đội F-86 được PAF bố trí (Phi đội 14), đã phải đối mặt với những chiếc MiG-21 và Su-7 ghê gớm của Xô Viết được Không quân Ấn Độ sở hữu và có số lượng hoàn toàn áp đảo.
Cho dù đối mặt với những thách thức như vậy, những chiếc F-86 đã hoạt động tốt, và được Không quân Pakistan cho là đã bắn rơi 31 máy bay Ấn Độ trong không chiến, bao gồm 17 chiếc Hawker Hunter, tám chiếc Sukhoi Su-7 'Fitter', một chiếc MiG 21 và ba chiếc Gnat trong khi bị tổn thất bảy chiếc F-86. Tuy nhiên, Ấn Độ cho là đã bắn rơi 11 chiếc Sabre PAF với tổn thất là 11 máy bay chiến đấu bị F-86 bắn rơi trong không chiến. Sức mạnh chung mà Không quân Ấn Độ có được là thuần túy về số lượng áp đảo đối với một phi đội Sabre tại Đông Pakistan duy nhất và các máy bay quân sự khác, vốn bị bắn rơi hay nằm lại trên mặt đất do không chống đỡ được, để cho Không quân Ấn Độ hoàn toàn khống chế được ưu thế trên không.
Trận không chiến đáng kể đầu tiên bên trên bầu trời Đông Pakistan là Trận đánh Boyra, trong đó phía Ấn Độ cho rằng bốn chiếc Folland Gnat của họ đã bắn rơi được ba chiếc Sabre. Nhưng thông tin này bị Không quân Pakistan phủ nhận và cho rằng hai chiếc Sabre và một chiếc Gnat đã bị rơi trong trận này. Tuy nhiên, năm chiếc Sabre trong số này sau đó được phục hồi trở lại tình trạng có thể bay được và được Không quân Bangladesh đưa vào hoạt động trở lại.
Sau cuộc chiến này, Pakistan dần dần loại bỏ những chiếc F-86 Sabre và thay thế chúng bằng kiểu máy bay tiêm kích F-6 của Trung Quốc (dựa trên thiết kế của chiếc MiG-19 Xô Viết). Chiếc Sabre cuối cùng được rút khỏi hoạt động trong Không quân Pakistan vào năm 1980. Phiên bản Sabre này được trang bị một động cơ Rolls-Royce RA.7 Avon Mk26, hai pháo ADEN 30mm, và kể từ năm 1959 được trang bị tên lửa không-đối-không AIM-9 Sidewinder, đưa đến các cải biến quan trọng so với thiết kế chiếc Sabre nguyên thủy. Không quân Hoàng gia Australia sử dụng những chiếc Avon-Sabre này từ năm 1956 đến năm 1971. Cho dù thành tích này không được chính thức công nhận (và không bao giờ xác nhận được vì chúng không được đo kiểm chính xác và đủ chứng cứ), nó cũng không bị chính thức phủ nhận.
Chiếc F-86 lần đầu tiên chính thức vượt bức tường âm thanh là vào ngày 26 tháng 4 năm 1948. Đến ngày 18 tháng 5 năm 1953, Jacqueline Cochran bay một chiếc F-86E do Canada chế tạo song song cùng Chuck Yeager, trở thành phụ nữ đầu tiên vượt bức tường âm thanh.
Đặc tính chung
- Đội bay: 01 người
- Chiều dài: 11,4 m (37 ft 6 in)
- Sải cánh: 11,3 m (37 ft 1 in)
- Chiều cao: 4,5 m (14 ft 8 in)
- Diện tích cản: 0,35 m² (3,8 ft²)
- Hệ số nâng/lực cản: 0,0132
- Tỉ lệ dài/rộng cánh: 4,78
- Trọng lượng có tải: 6.300 kg (13.791 lb)
- Động cơ: 1 x động cơ General Electric J47 turbo phản lực, lực đẩy 5.200 lbf (24,0 kN)
Đặc tính bay
- Tốc độ lớn nhất: 1.100 km/h (595 knot, 685 mph)
- Tầm bay tối đa: 1.900 km (1.000 nm, 1.200 mi)
- Trần bay: 14.900 m (49.000 ft)
- Tốc độ lên cao: 36,8 m/s (7.250 ft/min); 6,3 phút để đạt độ cao 9.145 m(30.000 ft)
- Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,38
- Tỉ lệ lực nâng/lực cản: 15,1
Vũ khí
- 6 x súng máy 12,7 mm (0,50 in)