✨North American F-100 Super Sabre
Chiếc North American F-100 Super Sabre (Siêu lưỡi kiếm) là một máy bay tiêm kích phản lực đã phục vụ cho Không quân Hoa Kỳ (USAF) từ năm 1954 đến năm 1971 và với Không lực Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ (ANG) cho đến năm 1979. Nó là chiếc máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên của Hoa Kỳ có khả năng bay siêu thanh khi bay ngang.
Chiếc F-100 được thiết kế ban đầu là kiểu tiếp nối cho chiếc máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không F-86 với tính năng bay tốt hơn. Được biến đổi thành máy bay tiêm kích ném bom, F-100 dần được thay thế bởi kiểu F-105 Thunderchief hạng Mach 2 trong những phi vụ tấn công tại Bắc Việt Nam. Chiếc F-100 cũng được sử dụng rộng rãi tại Nam Việt Nam như là máy bay phản lực hỗ trợ mặt đất chủ yếu của Không quân cho đến khi nó được thay thế bởi chiếc máy bay phản lực cận âm A-7 Corsair II hiệu quả hơn. Chiếc F-100 cũng phục vụ trong nhiều không lực thuộc khối NATO và các đồng minh khác của Mỹ. Trong quá trình phục vụ, nó thường được gọi tên lóng là the Hun tên tắt của "one hundred" (một trăm).
Thiết kế và phát triển
Vào tháng 1 năm 1951, North American Aviation tự nguyện đề nghị một kiểu máy bay tiêm kích ban ngày siêu thanh cho Không quân Hoa Kỳ. Đặt tên là Sabre 45 do kiểu cánh xuôi 45°, nó tiêu biểu cho sự tiến hóa của chiếc F-86 Sabre. Một mô hình được khảo sát vào ngày 7 tháng 7 năm 1951 và sau hơn 100 cải tiến, chiếc máy bay mới được chấp nhận với tên gọi là F-100 vào ngày 30 tháng 11 năm 1951. Đến ngày 3 tháng 1 năm 1952, Không quân Mỹ đặt hàng hai chiếc nguyên mẫu tiếp nối bởi 23 chiếc F-100A vào tháng 2 và bổ sung thêm 250 chiếc F-100A nữa vào tháng 8.
Chiếc nguyên mẫu YF-100A thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 25 tháng 5 năm 1953, sớm bảy tháng trước kỳ hạn. Nó đạt được tốc độ Mach 1,05 cho dù chỉ được trang bị động cơ yếu kém XJ57-P-7. Chiếc nguyên mẫu thứ hai bay vào ngày 14 tháng 10 năm 1953, rồi tiếp nối bởi chiếc F-100A sản xuất hằng loạt đầu tiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1953. Không lực Mỹ tiến hành thử nghiệm hoạt động thực tế trong thời gian từ tháng 11 năm 1953 đến tháng 12 năm 1955, tìm thấy rằng chiếc máy bay tiêm kích mới có tính năng bay rất tốt nhưng không thể triển khai số lượng lớn vì nhiều khiếm khuyết nhỏ trong thiết kế. Những phát hiện này sau đó được khẳng định trong Kế hoạch Hot Rod, một chương trình thử nghiệm tính phù hợp trong hoạt động. Sự cố đặc biệt nghiêm trọng là sự mất ổn định hướng trong một số chế độ bay tạo ra hiện tượng phối hợp quán tính. Máy bay có thể tạo ra hiện tượng mất hướng đột ngột và lộn vòng có thể xảy ra nhanh đến mức phi công không kịp xử lý và nhanh chóng tạo áp lực nặng lên khung máy bay làm cho cấu trúc máy bay bị phá hủy. Chính là trong những điều kiện như thế mà phi công thử nghiệm chính của North American là George Welch bị thiệt mạng trong khi thử nghiệm bổ nhào một chiếc F-100A được sản xuất đời đầu vào ngày 12 tháng 10 năm 1954. Một vấn đề về điều khiển có liên quan do đặc tính điều khiển của kiểu cánh xuôi ở góc tấn lớn. Khi máy bay tiến gần đến tốc độ chòng chành, việc mất lực nâng ở đầu cánh có thể tạo ra một sự ngóc mũi mạnh mẽ.
Tuy nhiên, những sự chậm trễ trong chương trình phát triển chiếc F-84F Thunderstreak buộc Bộ chỉ huy Không quân Chiến thuật phải đặt hàng những chiếc F-100A nguyên thủy để hoạt động. Họ cũng yêu cầu những chiếc F-100 trong tương lai phải là phiên bản máy bay tiêm kích-ném bom có khả năng mang bom hạt nhân.
Lịch sử hoạt động
nhỏ|phải|Chiếc "Thunderbirds" F-100D của [[Không quân Hoa Kỳ.]] Chiếc F-100A được chính thức đưa vào sử dụng trong Không quân Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 9 năm 1954 với Không đoàn Tiêm kích 479 tại Căn cứ không quân George. Đến ngày 10 tháng 11 năm 1954, kiểu F-100A gặp phải sáu tai nạn nghiêm trọng do mất ổn định khi bay, hỏng cấu trúc, và hỏng hệ thống thủy lực, buộc Không quân phải dừng bay toàn bộ đội máy bay cho đến tháng 2 năm 1955. Không đoàn 479 cuối cùng hoạt động vào tháng 9 năm 1955. Do tiếp tục có những vấn đề, Không quân bắt đầu loại bỏ kiểu F-100A vào năm 1958, và chiếc cuối cùng rời khỏi hoạt động thường trực vào năm 1961. Cho đến lúc này, đã có 47 máy bay bị mất trong các tai nạn nghiêm trọng.
Hoạt động của nước ngoài
Những chiếc F-100 của Không quân Trung Hoa Dân Quốc đã thực hiện các phi vụ tình báo bên trên lãnh thổ Trung Quốc, và nhiều chiếc đã bị mất.
Các thành tích đáng kể
Nguồn: Knaack
Đặc tính chung
- Đội bay: 01 người
- Chiều dài: 15,2 m (50 ft 0 in)
- Sải cánh: 11,81 m (38 ft 9 in)
- Chiều cao: 4,95 m (16 ft 3 in)
- Diện tích bề mặt cánh: 37 m² (400 ft²)
- Diện tích cản: 0,46 m² (5,0 ft²)
- Hệ số nâng/lực cản: 0,0130
- Tỉ lệ dài/rộng cánh: 3,76
- Lực nâng của cánh: 352 kg/m² (72,1 lb/ft²)
- Trọng lượng không tải: 9.500 kg (21.000 lb)
- Trọng lượng có tải: 13.085 kg (28.847 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 15.800 kg (34.832 lb)
- Động cơ: 1 x động cơ Pratt & Whitney J57-P-21/21A turbo phản lực có đốt sau, lực đẩy 10.200 lbf (45 kN), lực đẩy có đốt sau 16.000 lbf (71 kN)
Đặc tính bay
- Tốc độ lớn nhất: 1.390 km/h (750 knot, 864 mph)
- Tầm bay tối đa: 3.210 km (1.733 nm, 1.995 mi)
- Trần bay: 15.000 m (50.000 ft)
- Tốc độ lên cao: 114 m/s (22.400 ft/min)
- Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,55
- Tỉ lệ lực nâng/lực cản: 13,9
Vũ khí
- 4 x pháo M39 20 mm (0,787 in)
- bom: 3.190 kg (7.040 lb) bom bao gồm Bom thông thường hoặc bom nguyên tử Mark 7 hoặc bom nguyên tử Mk 28 hoặc bom nguyên tử Mk 43 hoặc bom nguyên tử Mk 57 hoặc bom nguyên tử Mk 61
- tên lửa:
4 × AIM-9 Sidewinder hoặc
AGM-12 Bullpup
Điện tử
- Hệ thống lái tự động Minneapolis-Honeywell MB-3
- Hệ thống ném bom tự động tầm thấp AN/AJB-1B