✨Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất

Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất

[[Messerschmitt Me 262|Me 262, loại máy bay tiêm kích phản lực đưa vào chiến đấu đầu tiên trên thế giới bởi Đức Quốc xã.]]

Máy bay được phân loại thành tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất là nỗ lực đầu tiên chế tạo ra các loại máy bay quân sự sử dụng động cơ phản lực. Một số đã được phát triển trong những ngày cuối cùng của Chiến tranh Thế giới II nhưng tham chiến lại rất hạn chế. Thế hệ tiêm kích phản lực thứ nhất này có thể chia thành 2 nhóm chính: những máy bay tiêm kích thời kỳ Chiến tranh Thế giới II như Messerschmitt Me 262 và những máy bay tiêm kích thế hệ thứ nhất đã hoàn thiện như loại F-86 Sabre và MiG-15 sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên.

Khái niệm "thế hệ" máy bay tiêm kích là một khái niệm tương đối hiện đại, dựa trên yêu cầu dành cho những máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5

Máy bay phản lực đầu tiên hoạt động là loại Heinkel He 178, đây là thiết kế của Đức Quốc xã, nó bay lần đầu vào năm 1939. He 178 còn được sử dụng làm cơ sở cho loại Heinkel He 280 sau này, đây là một thiết kế sẽ đưa tới loại Messerschmitt Me 262. Một thiết kế tương tự của Anh là Gloster E.28/39 đã có quy định về một số vũ khí trang bị, nhưng pháo không được trang bị cho bất kỳ mẫu thử nào.

P-59 Airacomet là mẫu máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Mỹ được đưa vào biên chế nhưng nó được xem như là một thiết kế tồi và không được tham chiến. Loại P-51 Mustang động cơ piston có thể đạt vận tốc tối đa cao hơn và có tầm chiến đấu cao hơn nhiều so với P-59.

Liên Xô cũng không nằm ngoài thời cuộc, họ cũng phát triển những mẫu tiêm kích phản lực cho riêng mình như các mẫu thiết kế Mikoyan-Gurevich I-250 và Sukhoi Su-5.

Người Nhật cũng có một số mẫu thử nghiệm như Nakajima J9Y "Kikka", nhưng chúng không được đưa vào biên chế.

Đưa vào trang bị

Kế hoạch phát triển cho loại tiêm kích phản lực Messerschmitt Me 262 "Schwalbe" được đưa ra vào năm 1939, chiếc đầu tiên trang bị động cơ phản lực cất cánh năm 1942. Nhưng phải đến năm 1944 thì Me 262 mới được đưa vào trang bị cho các đơn vị chiến đấu Mẫu máy bay Ouragan của Pháp cũng được thiết kế vào cuối thập niên 1940 chứ không phải trong thời chiến.

Hệ thống động cơ hỗn hợp

Những động cơ phản lực ban đầu có khả năng tăng tốc tồi, do đó người ta đã nghĩ ra hệ thống động cơ hỗn hợp, FR Fireball là loại máy bay có hệ thống động cơ như vậy. Nó có động cơ cánh quạt ở mũi và động cơ phản lực ở phía sau và được thiết kế để hoạt động trên tàu sân bay. Mikoyan-Gurevich I-250 và Sukhoi Su-5 của Nga cũng có thiết kế tương tự nhưng sử dụng động cơ motorjet thay vì động cơ turbojet và không được thiết kế để trang bị trên tàu sân bay.

Những thử nghiệm sau chiến tranh với động cơ hỗn hợp gồm XF2R Dark Shark và XF-84H Thunderscreech, một trong những chiếc máy bay ồn nhất từng bay. Thunderscreech được thiết kế cùng thời với mẫu tiêm kích thế hệ 2 là F-104 Starfighter. Không một mẫu máy bay có hệ thống động cơ hỗn hợp nào tham chiến hay được trang bị đại trà, dù Fireball đã được sử dụng trong 2 năm.

Chiến tranh Triều Tiên

Avro CF-100 của Canada. de Havilland Venom của Anh. F-89 của Hoa Kỳ. Saab 32 Lansen của Thụy Điển. MiG-15 của Liên Xô.

Sau Chiến tranh Thế giới II, những chiếc phản lực được chế tạo sau được bổ sung thêm một số các cải tiến lấy từ ý tưởng được dùng trong các mẫu phản lực đầu tiên. Gồm cánh xuôi sau, máy bay đã có thể phá vỡ bức tường âm thanh khi bổ nhào, nhưng một số mẫu máy bay lại thiếu lực đẩy để làm việc đó. Radar được sử dụng trong các mẫu máy bay tiêm kích đánh chặn chuyên nhiệm và tiêm kích ban đêm nhưng chúng lại yêu cầu phải có một phi công khác để vận hành radar. Những máy bay này chủ yếu đều liên quan tới Chiến tranh Triều Tiên. Một số thiết kế máy bay tiêm kích đánh chặn như F-94 còn được trang bị đạn phản lực như Mk 4/Mk 40 làm vũ khí chính.

Tiêm kích đánh chặn/tiêm kích đêm

  • ** Avro CF-100 Canuck
  • ** de Havilland Venom / de Havilland Sea Venom

  • ** Yakovlev Yak-25 'Flashlight'

  • Northrop F-89 Scorpion Lockheed F-94 Starfire ** Douglas F3D Skyknight

Tiêm kích-bom

  • Dassault Mystère I/II/III Dassault Mystère IV
  • ** Saab 21R

  • Republic F-84 Thunderjet Republic F-84F Thunderstreak

Tiêm kích chiếm ưu thế trên không

Rất nhiều trong số này cũng có các phiên bản tiêm kích-bom.

  • / ** CAC Sabre
  • / ** Canadair Sabre
  • ** Shenyang J-5

  • Saab Tunnan Saab Lansen

  • de Havilland Vampire de Havilland Venom

  • North American F-86 Sabre McDonnell F2H Banshee ** McDonnell F3H Demon

  • Lavochkin La-15 'Fantail' Mikoyan-Gurevich MiG-15 'Fagot' Mikoyan-Gurevich MiG-17 'Fresco' Yakovlev Yak-23 'Flora'

Dự án bị hủy bỏ

FMA IAe 33 Pulqui II của Argentina. Horten Ho 229 của Đức.

Gloster E.28/39 của Anh. Sukhoi Su-17 (1949) của Liên Xô.

  • I.Ae. 27 Pulqui I FMA IAe 33 Pulqui II
  • ** Aérocentre NC 1080

  • ** Aerfer Ariete / Aerfer Leone / Aerfer Sagittario 2

  • Nakajima J9Y Nakajima Ki-201

  • Đức quốc xã Focke-Wulf Ta-183 Heinkel He 280 Horten Ho 229 Messerschmitt Me P.1101 ** Messerschmitt Me P.1106
  • ** FFA N-20

  • Gloster E.1/44 Gloster E.28/39 ** Saunders-Roe SR.A/1

  • Alekseyev I-211 / Alekseyev I-215 Lavochkin La-150 Lavochkin La-168 Sukhoi Su-9 (1946) Sukhoi Su-15 (1949) Sukhoi Su-17 (1949) Yakovlev Yak-19 Yakovlev Yak-25 (1947) / Yakovlev Yak-30 (1948) ** Yakovlev Yak-50 (1949)

Một mẫu máy bay tiêm kích thời hậu chiến đáng chú ý không bao giờ được sử dụng đó là FMA IAe 33 Pulqui II, đây là một mẫu thử tiêm kích do Argentina chế tạo. Pulqui II được thiết kế bởi một đội gồm các kỹ sư cũ của Đức do Kurt Tank đứng đầu, họ thiết kế Pulqui II dựa trên những thiết kế ban đầu của Focke-Wulf Ta 183, một mẫu thiết kế nối tiếp của Me 262. Pulqui II bản thân nó là mẫu nối tiếp thành công của I.Ae. 27 Pulqui I, một mẫu thử tiêm kích phản lực được Emile Dewoitine phát triển ở Argentina vào cuối thập niên 1940 và là mẫu tiêm kích phản lực đầu tiên ở Nam Mỹ.

Kết thúc Thế hệ thứ nhất

Vào thập niên 1950, nhóm máy bay tiêm kích phản lực quan trọng tiếp theo được trang bị tên lửa không đối không làm vũ khí chính và thường xuyên có thể bay vượt âm ở các chuyến bay thông thường. Thế hệ máy bay tiêm kích thứ nhất bị hạn chế trong giao chiến do tầm nhìn hẹp, và hiệu năng của những loại tên lửa mới như AIM-7 Sparrow có radar bán tự động đã khiến các mẫu thiết kế máy bay buộc phải thay đổi.

Không có ranh giới rõ ràng để xác định giữa máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai, một số mẫu tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai như F-8 Crusader, vẫn sử dụng pháo làm vũ khí chính. Các tên lửa có đầu dò tự dẫn hồng ngoại hay còn gọi là "tầm nhiệt" như AIM-9 Sidewinder và loại tên lửa bám chùm như Kaliningrad K-5 đã được trang bị trên các mẫu máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất cuối cùng.

Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất thử nghiệm

XF-85 Goblin.

Flying Ram

Mẫu máy bay có thiết kế flying wing Northrop XP-79 là một loại máy bay khác thường chỉ bay duy nhất 1 lần, nó đã gặp tai nạn và giết chết phi công. Thiết kế ban đầu của nó trang bị động cơ tên lửa nhưng sau đó lại đổi sang dùng động cơ tuabin phản lực.

Máy bay tiêm kích phóng đi từ máy bay mẹ

Những máy bay tiêm kích phản lực ban đầu không có đủ tầm bay để hộ tống máy bay ném bom, chúng không thể bay tới mục tiêu rồi quay trở về, một vấn đề tương tự đã ngăn cản B-17 và các loại máy bay khác trong các chiến dịch ném bom ở Chiến tranh Thế giới II. Do đó người ta nghĩ đến giải pháp máy bay ném bom có thể mang theo một máy bay tiêm kích, ngoài ra máy bay ném bom cũng có các tháp pháo để tự bảo vệ mình, từ đó đã dẫn tới một số thiết kế khác thường, nhưng không được thực hiện.

  • XF-85 Goblin, được phóng đi từ khoang quân giới của máy bay ném bom.
  • Đề án FICON sử dụng F-84

Những loại máy bay thế hệ thứ nhất vẫn đang được sử dụng

Một vài mẫu máy bay từ thế hệ này hiện vẫn được sử dụng trong các lực lượng không quân ở các quốc gia nhỏ, thường làm nhiệm vụ cường kích chứ không phải nhiệm vụ tiêm kích. Đáng chú ý trong số này là Shenyang J-5, một mẫu máy bay của Trung Quốc phát triển từ MiG-17, nó vẫn được Bắc Triều Tiên sử dụng làm nhiệm vụ cường kích và vài quốc gia khác sử dụng làm máy bay huấn luyện.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Messerschmitt Me 262|Me 262, loại máy bay tiêm kích phản lực đưa vào chiến đấu đầu tiên trên thế giới bởi Đức Quốc xã.]] Máy bay được phân loại thành **tiêm kích phản lực thế
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba** tồn tại trong giai đoạn từ nửa sau thập niên 1960 tới thập niên 1970. nhỏ|phải|[[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|McDonnell Douglas F-4G Phantom II]] nhỏ|phải|[[Mikoyan-Gurevich
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ năm** là một phân loại thế hệ máy bay tiêm kích phản lực trang bị phần lớn các công nghệ được phát triển trong giai đoạn
Máy bay được phân loại là **máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư** là những chiếc được đưa vào sử dụng trong khoảng thời gian từ 1980-2010, thể hiện những khái niệm
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
Panavia Tornado **Máy bay tiêm kích đánh chặn** (hoặc đơn giản hơn là **máy bay đánh chặn**) là một loại máy bay chiến đấu được thiết kế chuyên dụng cho việc ngăn chặn và tiêu
phải|Máy bay tiêm kích bay đêm [[Messerschmitt Bf 110|Bf 110G-4 của Đức tại Bảo tàng Không quân Hoàng gia ở London.]] Một **máy bay tiêm kích ban đêm** (hay cũng gọi là **máy bay tiêm
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
thumb|[[Sukhoi Su-25|Su-25 và MiG-29 trong đội hình duyệt binh 9-5-2015]] thumb|Máy bay cường kích [[Sukhoi Su-24|Su-24 và máy bay tiếp dầu Il-78 trong đội hình, 4-2015]] **Máy bay cường kích** (hay còn gọi là **Máy
**de Havilland DH 112 Venom** là một loại máy bay phản lực một động cơ của Anh được phát triển từ de Havilland Vampire. Nó phục vụ trong biên chế của Không quân Hoàng gia
nhỏ|260x260px| [[Lockheed T-33 Shooting Star|Lockheed T-33 là máy bay huấn luyện phản lực được sản xuất nhiều nhất]] **Máy bay huấn luyện phản lực** là máy bay phản lực được sử dụng làm máy bay
**Mikoyan MiG-29** (; tên ký hiệu của NATO: **Fulcrum**) là một loại máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư do Liên Xô thiết kế chế tạo cho vai trò chiếm ưu thế
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Sukhoi Su-57** (hay PAK FA) là một máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm của Nga hiện đang được phát triển do Sukhoi đứng đầu. Đây là tên viết tắt của **Perspektivnyi Aviatsionnyi Kompleks
**Sukhoi Su-27** (; tên ký hiệu của NATO: **Flanker**) là một máy bay tiêm kích phản lực độc đáo của Liên Xô được thiết kế bởi Phòng thiết kế Sukhoi (SDB) và được sản xuất
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
**Shenyang J-31 (F60)**, biệt danh "**Cốt ưng**" (鹘鹰), là một loại máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ 5 hiện đang được Shenyang Aircraft Corporation phát triển. Giới truyền thông hay sử dụng
**Heinkel He 162 _Volksjäger**_ (tiếng Đức, "Chiến binh của nhân dân") là một mẫu máy bay tiêm kích trang bị một động cơ phản lực của Đức Quốc Xã, được không quân Đức Quốc Xã
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**Mikoyan MiG-29K** (; tên ký hiệu của NATO: **Fulcrum-D**) là một loại máy bay tiêm kích đa năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, được Nga phát triển và chế tạo.
Đây là danh sách máy bay phản lực được phát triển trong Chiến tranh Thế giới II: ## Khối Đồng minh ### #### Thử ngiệm *Gloster E.28/39 – 15/5/1941, đây là máy bay đầu tiên
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
Thế hệ thứ tám của máy chơi trò chơi điện tử bắt đầu vào năm 2012, gồm ba máy chơi trò chơi điện tử tại gia: Wii U phát hành vào năm 2012, dòng PlayStation
**Mitsubishi ATD-X Shinshin** là một mẫu thử máy bay tiêm kích phản lực thế hệ 5 sử dụng công nghệ tàng hình tiên tiến. ## Tính năng kỹ chiến thuật (ATD-X)
**Máy bay chiến đấu** là một loại máy bay quân sự của lực lượng không quân có chức năng trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt các lực lượng đối phương. ## Phân loại
**Shenyang J-15** (), còn gọi là _Cá mập bay_ (, Bính âm: _Fēishā;_ NATO định danh **Flanker-X2**), là một loại máy bay tiêm kích đa năng thế hệ thứ tư hoạt động trên tàu sân
**North American Aviation P-51 Mustang** là một máy bay tiêm kích một chỗ ngồi tầm xa của Hoa Kỳ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên. Chiếc
Chiếc **Lockheed F-104 Starfighter** là một kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn siêu thanh một động cơ có tính năng bay khá cao, đã phục vụ cho Không quân Hoa Kỳ từ năm 1958
Focke-Wulf **Fw 190 Würger** ("shrike"), thường gọi là **Butcher-bird**, là một kiểu máy bay tiêm kích một động cơ một chỗ ngồi của Không quân Đức, và là một trong những chiếc máy bay tiêm
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
nhỏ|300x300px|Máy bay [[Boeing 787 Dreamliner|Boeing 787-9 Dreamliner của Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam.]] **Máy bay**, còn gọi là **tàu bay** hay **phi cơ**, là phương tiện bay hiện đại, ngày nay đóng vai
Chiếc **Lockheed P-80 Shooting Star** là kiểu máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên đưa vào hoạt động trong Không lực Lục quân Hoa Kỳ và, dưới tên gọi F-80, tham gia hoạt động
**de Havilland DH.100 Vampire** là một loại máy bay tiêm kích trang bị động cơ phản lực được trang bị cho Không quân Hoàng gia (RAF) vào cuối Chiến tranh thế giới II. Sau Gloster
**Gloster Meteor** là loại máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Anh, và cũng là máy bay phản lực đầu tiên và duy nhất của quân Đồng minh hoạt động trong Chiến tranh
**Saab 35 Draken** (_Drake - Rồng_) là một loại máy bay tiêm kích của Thụy Điển do hãng Saab thiết kế chế tạo. Draken được chế tạo nhằm thay thế Saab J 29 Tunnan và
**Hawker Hunter** là một loại máy bay tiêm kích phản lực cận âm của Anh được phát triển vào thập niên 1950. Phiên bản Hunter một chỗ được đưa vào trang bị với vai trò
Chiếc **Messerschmitt Me 163 _Komet**_ (Sao chổi), do Alexander Martin Lippisch thiết kế, là một máy bay tiêm kích đánh chặn của Đức gắn động cơ tên lửa. Đây là kiểu máy bay tiêm kích
Chiếc **Republic F-84 Thunderjet** là một máy bay tiêm kích-ném bom phản lực do Hoa Kỳ chế tạo. Bắt nguồn từ một đề xuất năm 1944 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ về một
Chiếc **Kawasaki Ki-100** là một kiểu máy bay tiêm kích được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Thế Chiến II. Một biện pháp khẩn cấp nhằm thích nghi một chiếc máy bay
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**McDonnell XF-85 Goblin** là một mẫu thử máy bay tiêm kích do hãng McDonnell Aircraft thai nghén từ Chiến tranh Thế giới II. XF-85 sẽ được phóng đi từ khoang quân giới trên một chiếc
thumb|phải|[[B-2 Spirit, oanh tạc cơ tàng hình của Không lực Hoa Kỳ, cũng được xem là máy bay chiến đấu có giá thành cao nhất thế giới.]] thế=Sukhoi Su-57 là một trong những máy bay
thumb|right|Máy bay tiêm kích [[F-15E Strike Eagles của Không quân Mỹ]] thumb|Động cơ phản lực không khí của một chiếc máy bay chở khách đang cất cánh, có thể thấy rõ luồng khí phụt phía
Chiếc **Grumman F8F Bearcat** (được gọi một cách thân mật là "Bear") là một kiểu máy bay tiêm kích Hải quân một động cơ của Hoa Kỳ vào cuối những năm 1940. Nó tiếp tục
Chiếc **North American F-86 Sabre** (đôi khi được gọi là **Sabrejet**) là một máy bay chiến đấu có tốc độ cận âm được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ. Chiếc F-86 được phát triển
**Messerschmitt Me 262** _Schwalbe_ (tiếng Đức, nghĩa là _Chim nhạn_) là máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên trên thế giới, do Đức chế tạo. Nó được sản xuất trong chiến tranh thế giới
**Máy bay quân sự giữa hai cuộc chiến tranh thế giới** là các máy bay quân sự được phát triển và sử dụng trong khoảng thời gian giữa Chiến tranh thế giới I và Chiến
Chiếc **McDonnell F2H Banshee** là kiểu máy bay tiêm kích phản lực hoạt động trên tàu sân bay, được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng từ năm 1948 đến năm 1959 và bởi Hải quân
**Hawker Sea Hawk** là một loại máy bay tiêm kích phản lực một chỗ của Anh trang bị cho Không quân Hải quân (FAA), đây là binh chủng không quân của Hải quân Hoàng gia
**Canadair Sabre** là một loại máy bay tiêm kích phản lực do hãng Canadair chế tạo theo giấy phép từ hãng North American Aviation Inc. của Mỹ, loại máy bay này được Không quân Hoàng