✨Nhóm ngôn ngữ Tani

Nhóm ngôn ngữ Tani

Nhóm ngôn ngữ Tani (tên thay thế là nhóm ngôn ngữ Miri, Adi-Galo-Mishing-Nishing-Tagin (Bradley 1997), hay Aborifer-Miri-Dafla (Matisoff 2003)), là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng được nói chủ yếu ở Arunachal Pradesh, Ấn Độ và các vùng lân cận.

Phân bố

Nhóm ngôn ngữ Tani được nói bởi khoảng 600.000 người ở Arunachal Pradesh (trong đó có tiếng Adi, tiếng Apatani, tiếng Galo, tiếng Mising, tiếng Nyishi, tiếng Hill Miri, tiếng Tagin nói ở Đông Kameng, Tây Kameng, Papumpare, Lower Subansiri, Upper Subansiri, Tây Siang, Đông Siang, Upper Siang, Lower Dibang Valley và Lohit của Arunachal Pradesh và Dhemaji, Bắc Lakhimpur, Sonitpur v.v... của Assam). Chỉ riêng ở Arunachal Pradesh, khu vực nói tiếng Tani có diện tích khoảng 40.000 km2, tương đương một nửa diện tích của bang này. Có các cộng đồng người Tani rải rác ở bên kia biên giới Trung-Ấn, tại các khu vực lân cận thuộc Mêdog (người Miguba), Mainling (người Bokar và người Tagin) và Lhünzê (người Bangni, người Na, người Bayi, người Dazu và người Mara) của Tây Tạng. Tại đây, người Tani, cùng với các dân tộc nói các ngôn ngữ phi Tani (Idu và Taraon), được chính phủ Trung Quốc coi là người Lhoba.

Phân loại

Nhóm ngôn ngữ Tani được phân loại "an toàn" là một nhánh riêng biệt trong ngữ hệ Hán-Tạng. Họ hàng gần nhất của họ có thể là hai ngôn ngữ Digaro về phía đông: Taraon và Idu; Tôn Hoằng Khai (1993) là người đầu tiên đề xuất điều này, nhưng một mối quan hệ chưa được chứng minh một cách hệ thống. Blench (2014) gợi ý rằng nhóm ngôn ngữ Tani có lớp nền Đại Siang, với các ngôn ngữ Đại Siang là một họ ngôn ngữ phi Hán-Tạng bao gồm cụm Idu-Taraon và các ngôn ngữ Siang.

Mark Post (2015) quan sát thấy rằng nhóm ngôn ngữ Tani về kiểu hình giống với ngôn ngữ trong vùng ngôn ngữ Đông Nam Á lục địa, nơi ngôn ngữ thường có đặc điểm hình thái-cú pháp kiểu creole, khác với các ngôn ngữ khác trong "vùng văn hoá Tạng". Post (2015) cũng lưu ý rằng văn hóa Tani tương tự như văn hóa bộ lạc đồi núi Đông Nam Á lục địa, và không quá thích nghi với môi trường vùng núi lạnh lẽo.

Một phân loại tạm thời của Tôn (1993) cho rằng nhóm ngôn ngữ Tani là một nhánh chính của ngữ hệ Tạng-Miến (trong ngữ hệ Hán-Tạng), bao gồm:

  • Tani Đông (Adi/Abor) ?Damu Bori ** Mishing (còn gọi là Miri Đồng bằng) - Padam (Bor Abor) - Minyong
  • Tani Tây Apatani (còn gọi là Apa) Nishi ?Bokar (bao gồm Palibo và Ramo) Nishi (E. Dafla, Nishing; có thể bao gồm Nyisu, Yano), Tagin (W. Dafla), Bangni (Na), Hill Miri (Sarak) Gallong (Duba, Galo)

Đối với nhóm Tani Đông, van Driem (2008) thêm các ngôn ngữ sau:

: Shimong, Tangam, Karko, Pasi, Panggi, Ashing

Theo truyền thống, Milang đã được phân loại là một ngôn ngữ Tani khác biệt, nhưng vào năm 2011 đã được phân loại lại vào nhóm ngôn ngữ Siang (Post & Blench 2011).

Ngôn ngữ Tani nguyên thủy được Tôn Hoằng Khai (1993) phục dựng một phần. Một lượng lớn từ được phục dựng có từ cùng gốc trong các ngôn ngữ Hán-Tạng khác. Trái lại, rất nhiều từ vựng Tani nguyên thủy lại vắng mặt trong phần còn lại của hệ Hán-Tạng (Post 2011). Hầu hết đặc điểm ngữ pháp Tani dường như chỉ là mang tính thứ cấp, khác biệt với những đặc điểm ngữ pháp trong tiếng Cảnh Pha hay các ngôn ngữ Kiranti (Post 2006)) (hai nhóm Hán-Tạng mang nhiều nét nguyên thủy). Post (2012) cho thấy Apatani và Milang có lớp nền phi Tani, và các ngôn ngữ Tani thời xưa khi lan rộng đã hoà trộn với các ngôn ngữ phi Tani.

Mark Post (2013) đề xuất phân loại sửa đổi sau đây cho nhóm ngôn ngữ Tani.

  • Tani ?Milang Tani Đông Bori Siang (Adi) Minyong Mising Pasi Padam Tani tiền-Tây ** Tangam, Damu ? Tani Tây Apatani Subansiri Bangni - Tagin Nyishi - Hill Miri * Galo ** Lare ** Pugo

Từ vựng

Tôn (1993: 254-255) liệt kê 25 từ sau trong hai nhánh Tani Tây và Tani Đông.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhóm ngôn ngữ Tani** (tên thay thế là **nhóm ngôn ngữ** **Miri**, _Adi-Galo-Mishing-Nishing-Tagin_ (Bradley 1997), hay _Aborifer-Miri-Dafla_ (Matisoff 2003)), là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng được nói chủ yếu ở Arunachal Pradesh,
**Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur** hay **ngữ quần Tạng-Kanaur**, còn được gọi là **ngữ quần Bod**, **ngữ quần Bod-Himalaya**, **ngữ quần Tạng-Himalaya** (藏-喜马拉雅语群) và **ngữ quần Tạng-Miến Tây**, là một cấp phân loại trung gian được
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Arunachal Pradesh** () là một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ. Bang này nằm tại khu vực đông bắc của liên bang, giáp với các bang Assam và Nagaland về phía nam, và
thumb|Kệ chứa [[Tankōbon|các tập truyện của manga thuộc ấn hiệu Margaret Comics tại một hiệu sách ở Tokyo năm 2004.|272x272px]] là một thể loại manga dành cho đối tượng độc giả là nữ ở độ
Bộ manga Hunter _×_ Hunter của Yoshihiro Togashi có một hệ thống các nhân vật hư cấu rất rộng lớn. Đầu tiên phải kể đến là Gon, con trai của Hunter nổi tiếng, Ging Freecss.
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
**Lịch sử anime** khởi nguồn vào đầu thế kỷ 20, khi Nhật Bản tiếp thu những kỹ thuật hoạt hình của phương Tây, với những tác phẩm được phát hiện sớm nhất có thể tính
, là một cuộc nổi loạn của các cựu samurai ở phiên Satsuma chống lại triều đình Thiên hoàng Minh Trị từ 29 tháng 1 năm 1877 đến 24 tháng 9 năm 1877, niên hiệu
là một phim điện ảnh hoạt hình kỳ ảo của Nhật Bản, do Studio Ghibli thực hiện với kịch bản, sản xuất và đạo diễn bởi Miyazaki Hayao. Truyện phim xoay quanh một nữ phù
**Mōri Motonari** (kanji: 毛利 元就, phiên âm Hán Việt: _Mao Lợi Nguyên Tựu_) là một lãnh chúa _Daimyō_ xứ Aki vào cuối thời kỳ Muromachi cho đến thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Nhật
**Conan – Cậu bé tương lai** (Tiếng Nhật: 未来少年コナン phiên âm Hepburn: Mirai Shōnen Konan) là bộ anime chủ đề khoa học viễn tưởng được xưởng phim Nippon Animation sản xuất và đạo diễn bởi
**Suzuki** **Toshio** (tiếng Nhật: 鈴木敏夫, Hán Việt: Linh Mộc Mẫn Phu, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1948) là một nhà sản xuất phim hoạt hình, cựu chủ tịch của Studio Ghibli và từng có