✨Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin

Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin

Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin (còn được gọi là ngữ quần Mizo, ngữ quần Kukish hoặc ngữ quần Tạng-Miến Trung-Nam) là một nhánh của 50 ngôn ngữ Hán-Tạng được nói ở đông bắc Ấn Độ, miền tây Miến Điện và miền đông Bangladesh. Hầu hết những người nói các ngôn ngữ này được gọi là người Mizo ở Mizoram và Manipur; cũng như Kuki trong tiếng Assam và người Chin ở Miến Điện; một số cũng được xác định là Zomi (Lushai). Tiếng Mizo là ngôn ngữ Kuki-Chin được sử dụng rộng rãi nhất.

Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin đôi khi được đặt trong nhóm Kuki-Chin-Naga, một nhóm mang tính địa lý hơn là ngôn ngữ.

Hầu hết các ngôn ngữ Kuki-Chin được sử dụng ở khu vực bang Chin, Miến Điện, với một số ngôn ngữ được sử dụng ở vùng Sagaing, vùng Magway và Bang Rakhine. Ở Đông Bắc Ấn Độ, nhiều ngôn ngữ Kuki-Chin Bắc cũng được sử dụng ở bang Mizoram và Manipur, Ấn Độ, đặc biệt là ở huyện Churachandpur, huyện Pherzawl, huyện Kangpokpi và huyện Senapati. Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin Tây Bắc được sử dụng chủ yếu ở huyện Chandel, Manipur.

Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin còn được gọi là nhóm ngôn ngữ Tạng-Himalaya Trung tâm-Nam (hay Tạng-Miến Nam Trung Bộ) bởi Konnerth (2018), vì ý nghĩa tiêu cực của thuật ngữ "Kuki-Chin" đối với nhiều người nói các ngôn ngữ trong nhóm này.

Phân loại nội bộ

Nhóm ngôn ngữ Karbi có thể có mối quan hệ chặt chẽ với nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin, nhưng Thurgood (2003) và van Driem (2011) coi Karbi thuộc nhóm không phân loại trong ngữ hệ Hán-Tạng.

Các nhánh Kuki-Chin được liệt kê dưới đây theo VanBik (2009), với nhánh Tây Bắc được thêm từ Scott DeLancey và những người khác (2015), và nhánh Khum (đã được tách ra từ nhánh Nam) theo Peterson (2017).

; Kuki-Chin

  • Trung tâm: Mizo (Lushai), Bawm (Sunthla và Panghawi), Tawr, Hmar, Hakha (Lai Pawi, Mi-E, Zokhua), Darlong, Pangkhua
  • Mara: Mara (Tlosai {Siaha và Saikao}, Hawthai {Lyvaw, Sizo và Lochei}, Hlaipao {Zyhno, Heima và Lialai}), Zyphe, Senthang, Zotung, Lautu
  • Bắc: Falam (Hallam, incl. Laizo / Tlaisun, Khualsim, Zanniat, Zahau, Hauhulh, Simpi, Hualngo, Chorei), Suantak-Vaiphei, Hrangkhol, Zo (Zou), Biate (Bete), Paite, Tedim (Tiddim), Thado (Kuki), Gangte, Simte, Vaiphei, Siyin (Sizaang), Ralte, Ngawn
  • Nam: Shö (Asho / Khyang, Bualkhaw, Chinbon), Thaiphum, Daai (Nitu), Mün, Yindu, Matu, Welaung (Rawngtu), Kaang, Laitu, Rungtu, Songlai, Sumtu
  • Khom: Khumi (Khumi đích thực và Khumi Awa), Mro, Rengmitca, v.v.
  • Tây Bắc: Monsang (Naga), moyon (Naga), Lamkang (Naga), Aimol, Anal (Naga), Tarao (Naga), Koireng (Kolhreng), Chiru, Kom, Chothe, Sorbung, Purum,

Người nói tiếng Anu-Hkongso tự nhận mình là người dân tộc Chin, mặc dù ngôn ngữ của họ có liên quan mật thiết với tiếng Mru hơn là ngôn ngữ Kuki-Chin. Nhóm ngôn ngữ Mru là một nhánh riêng của ngữ tộc Tạng-Miến và không phải là một phần của nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin.

VanBik (2009)

Kenneth VanBik's (2009: 23) đã phân loại các ngôn ngữ Kuki-Chin dựa trên những thay đổi âm thanh được chia sẻ (đổi mới về âm vị học) từ ngôn ngữ Kuki-Chin nguyên thủy như sau:

Kuki-Chin

  • Trung tâm: k (ʰ) r-, p (ʰ) r-> t (ʰ) r-; k (ʰ) l-, p (ʰ) l-> t (ʰ) l-; y-> z- Pangkhua ? Laamtuk Thet: Laamtuk, Ruavaan Tiếng Lai ** Hakha: Hakha, Thantlang, Zokhua Falam: Bawm, Bualkhua, Laizo, Lente, Khualsim, Khuangli, Sim, Tlaisun, Za-ngiat Tiếng Mizo ** Mizo: Fan-ai, Hualngo, Lushai, Khiangte, Ralte Hmar: Khosak, Thiek, Lawitlang, Khawbung, Darngawn, Lungtau, Leiri
  • Mara: kr-> ts-; -ʔ, -r, -l> -Ø; -p, -t, -k> Tiếng Mara Tlosai Saikao Siaha * Hlaipao Heima Lialai *** Vahapi/Zyhno HawThai Sizo **** Ngaphepi Sabyu * Chapi *** Lyvaw Lochei Tisih Phybyu Lautu ** Hnaro Chawngthia Zophei ** Vytu SaTe / Awhsa Senthang ** Khuapi Sirkhua Zotung ** Shal Thawng Ở Mai
  • Ngoại vi: r-> g- Bắc: -> ts-; kl-> tl-; -r> -k ** Thado / Kuki, Tedim, Khuangsai, Paite, Vuite, Chiru Sizang / Siyin, Guite / Nguite, Vaiphei, Zo Nam (đồng bằng Nam): -r> -y ** Khumi: Khomi, Wakung Cho-Asho Asho Cho: Matu; Chinpon; Daai, Nghmoye, Ngmuun, Mkaang

Peterson (2017)

David A. Peterson's (2017: 206) phân loại nội bộ các ngôn ngữ Kuki-Chin như sau.

; Kuki-Chin

  • Tây Bắc: Purum (Naga), Koireng, Monsang (Naga), v.v.
  • Trung tâm Trung tâm lõi Mara
  • Ngoại vi Đông Bắc Khom: Khami / Khumi, Mro -Khimi, Lemi, Rengmitca, v.v. Nam ** Cho Daai *** Hyow/Asho

Nhánh đông bắc của Peterson tương ứng với nhánh Bắc của VanBik, trong khi nhánh tây bắc của Peterson tương ứng với nhánh Kuki cổ của các phân loại trước đây.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin** (còn được gọi là **ngữ quần Mizo**, **ngữ quần** **Kukish** hoặc **ngữ quần Tạng-Miến Trung-Nam**) là một nhánh của 50 ngôn ngữ Hán-Tạng được nói ở đông bắc Ấn Độ, miền
**Nhóm ngôn ngữ Boro–Garo** là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng, nói chủ yếu ở Đông Bắc Ấn Độ và Bangladesh. Nhóm Boro–Garo chia làm bốn nhóm con: Boro, Garo, Koch, Deori. Trong lịch sử, các
**Ngôn ngữ Lai** hay **Lai Chin** là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin trung tâm khác nhau được sử dụng bởi người Lai, một dân tộc thuộc "nhóm Kuki-Chin" cư trú chủ yếu ở
**Người Chin** (, ) là một trong những dân tộc chính ở Myanmar, và một thiểu số ở đông Ấn Độ và Bangladesh . Thực tế người Chin gồm nhóm với 37 nhóm địa phương
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
nhỏ|phải|Ngựa trắng Pháp **Ngựa trắng** là thuật ngữ chỉ chung về những con ngựa có sắc lông sáng màu theo quang phổ trắng. Thuật ngữ ngựa trắng có phạm vi chỉ màu sắc sáng ở
thumb|gia huy của Gia tộc Oda (emblem) là một daimyo trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời
hay là những tên gọi được dùng để chỉ các cuộc xung đột quân sự giữa Mạc phủ Tokugawa và gia tộc Toyotomi diễn ra xung quanh Thành Ōsaka, bắt đầu từ tháng 12 năm