✨Tam tạng

Tam tạng

Tam tạng (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng như Tam tạng Pali được duy trì bởi truyền thống Theravāda ở Sri Lanka và Đông Nam Á, Tam tạng Hán ngữ được duy trì bởi truyền thống Phật giáo Đông Á và Tam tạng Tạng ngữ được duy trì bởi truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Những bộ Tam tạng này giữ vị trí quan trọng nhất trong thế giới Phật giáo đương đại. Trong một thời gian dài, thuật ngữ Đại tạng kinh được xem là tương đương với thuật ngữ Tam tạng theo truyền thống (Đại tạng Pali, Đại tạng Hán văn, Đại tạng Tạng văn). Tuy nhiên, các học giả hiện đại chỉ ra rằng cách đặt tên như thế là sai lệch vì Đại tạng kinh thực tế có quy mô lớn hơn nhiều so với Tam tạng. Do các phiên bản Đại tạng Hán văn có số lượng lớn nhất, với các phiên bản Càn Long tạng, Gia Hưng tạng..., một số học giả phương Tây thường dùng thuật ngữ Đại tạng kinh theo nghĩa hẹp để chỉ riêng các bộ tổng tạng chữ Hán, sử dụng phổ biến ở Đông Á và Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất giữa hái niệm Tam tạng và Đại tạng chính là Đại tạng kinh không chỉ bao gồm Tam tạng với các kinh văn A-hàm (Āgama), Tỳ-nại-da (Vinaya) và A-tì-đạt-ma (Abhidharma) từ các bộ phái Phật giáo sơ kỳ; mà còn bổ sung thêm các kinh điển Đại thừa và Mật thừa, các tập du ký, kinh văn bản địa, từ điển chú giải, cũng như tiểu sử các cao tăng.

Từ nguyên

Tripiṭaka (tiếng Phạn: त्रिपिटक), hay Tipiṭaka (trong tiếng Pāli), có nghĩa là "Ba cái giỏ". Nó là từ ghép tiếng Phạn của tri (त्रि) hoặc từ Pāli ti, nghĩa là "ba", và piṭaka (पिटक) hoặc piṭa (पिट), nghĩa là "cái giỏ". gồm: Kinh tạng (zh. 經藏, sa. sūtra-piṭaka, pi. sutta-piṭaka), gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử; Luật tạng (zh. 律藏; sa., pi. vinaya-piṭaka) chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già cũng như các giới luật của người xuất gia; và Luận tạng (zh. 論藏, sa. abhidharma-piṭaka, pi. abhidhamma-piṭaka), chứa đựng các kiến thức về phương pháp luận triết học Phật giáo.

Truyền thống Phật giáo Hán truyền còn sử dụng thuật ngữ "Tam tạng" (三藏) như một danh hiệu danh dự cho những vị cao tăng tinh thông kinh điển Tam tạng. Theo đó, những vị thông thạo cả Kinh, Luật, Luận, thường được xưng tụng là Tam tạng pháp sư (三藏法师) hoặc Tam tạng trì giả (三藏持者). Vị Tam tạng pháp sư nổi tiếng nhất là cao tăng Trần Huyền Trang đời nhà Đường, người đã hành hương đến Ấn Độ để nghiên cứu và mang kinh điển Phật giáo trở về Trung Quốc. Do ảnh hưởng của tiểu thuyết Tây du ký, nhiều người hiểu lầm danh xưng "Đường Tam Tạng" chính là tên của nhà sư Huyền Trang.

Lược sử

Hình thành

Theo truyền thống Phật giáo, ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, 500 đệ tử cao đệ của Ngài, dưới sự lãnh đạo của Ma-ha Ca-diếp, đã tổ chức kết tập nhằm đúc kết lại những lời dạy của thầy. Tại lần kết tập này, Ưu-bà-li tụng về Luật và A-nan-đà tụng về Pháp. Nếu như phần Kinh tạng gần như hoàn chỉnh, thì phần giới luật chỉ mới là những tập hợp rời rạc mà truyền thống Phật giáo Hán truyền gọi là Bát thập tụng luật (八十誦律). Khoảng 100 năm sau, các trưởng lão của Tăng đoàn đã tổ chức kết tập lần thứ hai, hoàn chỉnh thêm phần Luật tạng.

Mặc dù tất cả 6 truyền thống giới luật Phật giáo còn sót lại đều có ghi chép, toàn bộ hoặc một phần, về các kỳ kết tập thứ nhất và thứ hai, nhưng hầu hết các học giả hiện đại đều đặt câu hỏi về tính lịch sử của những lần kết tập đầu tiên này. Trong khi đó, các ghi chép về kỳ kết tập thứ ba lại có sự khác biệt đáng kể giữa các tài liệu. Tuy nhiên, hầu hết chúng đều thống nhất rằng nó đã được diễn ra tại Pataliputra, kinh đô của hoàng đế Ashoka bấy giờ. Phần tạng Luận, tập hợp từ các phần A-tì-đạt-ma, cũng được hệ thống hóa và trở thành phần thứ 3 trong Tam tạng. Các học giả hiện đại cũng ghi nhận kỳ kết tập thứ ba đánh dấu sự hình thành hệ kinh điển bằng chữ viết thay cho hình thức khẩu truyền trước đó, cũng như sự ra đời của các phái bộ truyền giáo. Kỳ kết tập này cũng ghi dấu mốc chính thức mở đầu thời kỳ Phật giáo Bộ phái dẫn đến sự hình thành các bộ phái cũng như các hệ tổng tạng kinh điển khác nhau sau đó.

Các thành phần

; Luật tạng Giai đoạn đầu hình thành Tăng đoàn, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đưa ra những khuyến cáo những việc xấu nên tránh và những việc tốt nên làm, nhằm định hướng mục tiêu cho các đệ tử theo đuổi để đạt đến Niết-bàn. Những khuyến cáo đó được gọi là Thi-la (शील, sa. Śīla; pi. Sīla; zh. 戒, Giới), mang tính chất khuyến khích mọi người theo đuổi nó càng nhiều càng tốt tùy theo khả năng, hoàn cảnh và phán đoán của chính họ. Khi Tăng đoàn phát triển lớn số lượng tăng nhân, Đức Phật bắt đầu chế định những cách thức sinh hoạt trong cộng đồng tăng đoàn. Những chế định quan trọng nhất được tập hợp thành các bài kệ, và chúng được đọc trong các buổi Uposatha để nhắc nhở tăng chúng, hình thành các Tỳ-nại-da (विनय, sa., pi. Vinaya; zh. 律, Luật). Khác với Thi-la mang tính chất tự giác, Tỳ-nại-da mang tính chất chế tài. Những tăng nhân nào không tuân thủ sẽ bị Tăng đoàn trừng phạt tùy theo mức độ nghiêm trọng của vụ việc, lỗi nhẹ có thể sám hối trước tăng chúng, lỗi nặng sẽ bị trục xuất khỏi Tăng đoàn. Cả hai thành phần này thường đi chung với nhau trong đời sống tăng đoàn, nên thường được gọi chung là những giới luật.

Truyền thống Phật giáo đều cho rằng, giới luật được hệ thống ngay từ kỳ kết tập thứ nhất, do tôn giả Ưu-bà-ly tuyên đọc, tập hợp tất cả các giới luật từng được Đức Phật chế ra, gồm các quy tắc và quy định, hoặc luân lý và đạo đức, của đời sống tu sĩ, từ quy định về trang phục và chế độ ăn uống đến các điều cấm đối với một số hành vi cá nhân. Sau kỳ kết tập thứ hai, vì quan điểm khác nhau về giới luật, nên các bộ phái Phật giáo bị chia rẽ, Tăng đoàn của các bộ phái khác nhau đều có giới luật riêng, hình thành Luật tạng đặc thù của từng bộ phái.

Theo các nhà nghiên cứu hiện đại, Luật tạng dường như đã phát triển dần dần như một bản phân tích cho các quy tắc tu viện (Prātimokṣa), giả định trước một sự chuyển đổi từ một cộng đồng hành khất lang thang (thời kỳ Sūtra Piṭaka) sang một cộng đồng tu sĩ ít vận động hơn (thời kỳ Vinaya Piṭaka). Chính sự cách biệt về mặt địa lý là yếu tố quan trọng hình thành sự khác biệt về giới luật. Truyền thống Thượng tọa bộ phụng hành Luật tạng Pali, xuất phát từ Luật tạng của Xích đồng diệp bộ. Truyền thống Đại thừa phụng hành theo Bồ tát giới, rải rác trong các kinh, luận Đại thừa như Du-già sư địa luận (phần "Bồ tát địa", giới phẩm), Phạm võng Bồ tát giới kinh, Hư không tạng Bồ tát kinh... Truyền thống Tạng truyền thì phụng hành Luật tạng của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (xuất xứ từ Thuyết nhất thiết hữu bộ).

Truyền thống Phật giáo Hán truyền trước thời nhà Đường có 3 truyền thống phụng hành Luật tạng, gồm Tứ phần luật (từ Pháp Tạng bộ), Thập tụng luật (từ Thuyết nhất thiết hữu bộ) và Ma-ha-tăng-kỳ luật (từ Đại chúng bộ). Về sau, do sự ủng hộ của đại sư Đạo Tuyên và các đệ tử, luật Tứ phần được đánh giá là "phân thông Đại thừa" (分通大乘), nên từ thời Đường, nghiên cứu về luật Tứ phần đã trở thành xu hướng chủ đạo, được xưng là "Nam Sơn luật học" hoặc "Tứ phần luật tông". Đạo Tuyên cũng được xưng tụng là Sơ tổ của Luật tông Trung Quốc.

; Kinh tạng Trong cuộc đời hoằng pháp của mình (khoảng 40 hoặc 45 năm tùy theo truyền thống Phật giáo), Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng thuyết với số lượng bài giảng đồ sộ ở dạng cách ngôn hoặc tường thuật. Sau khi Ngài nhập diệt, các đệ tử đã kết tập chúng ngay trong kỳ kết tập thứ nhất, nhằm bảo tồn trọn vẹn những giáo thuyết của thầy mình. Những bài giảng ấy được gọi chung là Tu-đa-la (सूत्र, sa. Sūtra; pi. Sutta; zh. 經, Kinh), theo truyền thống, do thị giả của Đức Phật là A-nan tụng đọc, được các trưởng lão duy trì bằng cách truyền khẩu qua nhiều thế hệ trước khi được lập thành văn tự vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Trong suốt quá trình đó, các kinh văn liên tục được điều chỉnh và bổ sung, nên ngay cả trong King tạng cũng có thể tìm thấy những kinh văn cũ hơn và muộn hơn.

Trong kinh điển Pali, Kinh tạng được phân thành các Bộ kinh (pi. nikāya), gồm 5 phần: Trường Bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), Trung Bộ kinh (pi. majjhima-nikāya), Tương ưng Bộ kinh (pi. saṃyutta-nikāya), Tăng chi Bộ kinh (pi. aṅguttara-nikāya), và Tiểu Bộ kinh (pi. khuddaka-nikāya). Truyền thống Phật giáo Hán truyền chủ yếu sắp xếp phần Kinh tạng thành 4 A-hàm (sa. āgama), gồm Trường a-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama), Trung a-hàm (zh. 中阿含, sa. mādhyamāgama), Tăng nhất a-hàm (zh. 增壹阿含, sa. ekottarikāgama), và Tạp a-hàm (zh. 雜阿含, sa. saṃyuktāgama). Ngoài ra, một số truyền thống bộ phái còn có thêm phần Tạp tạng, chứa các phần Pháp cú kinh, Xuất diệu kinh, Bản sự kinh, Bản sinh kinh... như là phần phụ lục của 4 bộ A-hàm.

Kinh điển Đại thừa còn bổ sung vào Kinh tạng các bộ kinh Đại thừa như Bát-nhã, Bảo tích, Đại tập, Hoa nghiêm, Niết-bàn, và các bộ kinh khác ngoài 5 bộ kinh chính trên (như Pháp hoa kinh, Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Giải thâm mật kinh, Lăng-già kinh, A-di-đà kinh, Kim quang minh kinh...

; Luận tạng Thời Đức Phật tại thế, Ngài đã sử dụng một phương pháp luận mà Ngài gọi là A-tì-đạt-ma (अभिधम्म, sa. Abhidharma; pi. Abhidhamma) để truyền thụ chủ thuyết của mình, thông qua việc sử dụng các mẫu đề (sa. mātŗkā; pi. mātikā). Tuy nhiên, trong kỳ kết tập thứ nhất, các A-tì-đạt-ma chưa thực sự được tập hợp thành hệ thống riêng, mà vẫn còn nằm rải rác trong phần Kinh tạng. Những văn bản sớm nhất của Kinh điển Pali đã không đề cập đến các văn bản của Luận tạng. Theo các học giả hiện đại, niên đại nguồn gốc của Luận tạng thường được xác định vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, xấp xỉ 100 đến 200 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Nó cũng được bổ sung phần Ưu-bà-đề-xá (उपदेश, sa. upadeśa; zh. 論議, Luận nghị), những bình luận và rút ra ý nghĩa từ kinh điển do chính Đức Phật thuyết giảng. Văn học A-tì-đạt-ma có thể bắt nguồn từ việc biên soạn và giải thích kinh điển, nhưng sau đó đã phát triển thành các học thuyết độc lập.

Chính sự phát triển của những bộ luận giải như thế sau đó đã phát triển thành các bộ luận của các bộ phái khác nhau. Trong đó, hai bộ Luận tạng còn được bảo tồn gồm:

Luận tạng của Xích đồng diệp bộ có 7 bộ luận chính:

Pháp tập luận (Dhamma-saṅganī)

Phân biệt luận (Vibhaṅga)

Giới luận (Dhātu-kathā)

Nhân thi thiết luận (Puggala-paññatti)

Luận sự (Kathā-vatthu)

Song luận (Yamaka)

Phát thú luận (Paṭṭhāna)

Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ cũng có 7 bộ:

Pháp uẩn luận (Dharma-skandha)

Tập dị môn luận (Saṃgīti-paryāya)

Thi thiết luận (Prajñapti)

Thức thân luận (Vijñānakāya)

Phẩm loại luận (Prakaraṇa)

Giới thân luận (Dhātukāya)

Phát trí luận (Jñāna-prasthāna)

Ngoài ra, các bộ luận khác đã được lưu truyền bao gồm Xá-lợi-phất A-tì-đàm luận (Śāriputrābhidharma) của Pháp Tạng bộ, tương truyền do Ma-ha Ca-diếp sáng tác từ thời D(ức Phật tại thế, nằm trong bộ Tạng thích (Petakopadesa). Hay như bộ Nghĩa thích và Vô ngại giải đạo của Đồng diệp bộ, tuy được xếp vào King tạng, nhưng nội dung lại thuộc thể loại Ưu-ba-đề-xá hoặc A-tì-đạt-ma.

Do các bộ Luận tạng lớn và khó hiểu, các thế hệ luận sư về sau đã phát triển nhiều tác phẩm "tập đại thành" cho mục đích toàn diện, chẳng hạn như Tạp tâm luận của Pháp Cứu, Thành thực luận của Ha-lê-bạt-ma, Câu-xá luận của Thế Thân, Thanh tịnh đạo luận của Phật Âm.

Các bộ luận quan trọng của Phật giáo Đại thừa gồm có Trung luận của Long Thọ, Bách luận và Tứ bách luận của Đề-bà, Du-già sư địa luận, Đại thừa Trang nghiêm kinh luận và Biện trung biên luận của Duy thức tông, Nhiếp Đại thừa luận của Vô Trước, Duy thức nhị thập luận và Duy thức tam thập tụng của Thế Thân, Bảo tính luận của Kiên Huệ...

Truyền thống Bộ phái

Mặc dù có cùng nguồn gốc, nhưng mỗi bộ phái đều phát triển những các phiên bản Tam tạng kinh điển của riêng mình, mà theo Nghĩa Tịnh, chỉ khác nhau ở một số điểm dị biệt cố ý hoặc vô ý. Theo một số tài liệu, từ cách phân loại Tam tạng theo truyền thống, một vài bộ phái còn phát triển thành 5 hoặc 7 bộ tạng. Chẳng hạn theo ghi ghép trong Tam luận huyền nghĩa (三論玄義), kinh điển của Pháp Tạng bộ, ngoài Tam tạng, còn có thêm Bồ tát tạng và Chú tạng, hợp thành Ngũ tạng. Vãn kỳ Phật giáo Đại thừa cũng có tồn tại một cách phân loại Ngũ tạng, như ghi chép của Đại thừa Lý thú lục Ba-la-mật-đa kinh (大乘理趣六波羅蜜多經), ngoài Tam tạng, còn có Bát-nhã tạng, Đà-la-ni tạng, hợp thành Ngũ tạng.

Trong các ghi chép của mình, Nghĩa Tịnh từng lưu ý rằng mặc dù có rất nhiều bộ phái chính và nhánh phụ, nhưng các bộ phái này đều chia sẻ kinh điển Tam tạng của truyền thống mẹ (mà ông gọi là "bốn bộ phái truyền thừa chính" hoặc truyền thống "arya"). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các nhánh bộ phái phụ khác nhau không sở hữu Tam Tạng độc đáo của riêng họ.

Sau chuyến du hành Ấn Độ, Nghĩa Tịnh được cho là đã mang về Trung Quốc 4 bộ Tam tạng của 4 bộ phái phi Đại thừa là Đại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, Thượng tọa bộ và Chính lượng bộ. Huyền Trang sau đó cũng mang về ngoài 4 bộ Tam tạng của 4 bộ phái trên, còn mang thêm được 3 bộ Tam tạng của các bộ phái Pháp Tạng bộ, Ca-diếp bộ và Hóa địa bộ. Tuy nhiên, ngoại trừ phiên bản của Thượng tọa bộ còn tồn tại đầy đủ và những phiên bản khác còn tồn tại một phần, tất cả các kinh văn của các bộ phái đều bị thất lạc trong lịch sử hoặc vẫn chưa được tìm thấy. Cũng trong thế kỷ thứ 6, tài liệu Avalokitavrata viết về Đại chúng bộ đã sử dụng thuật ngữ "Đại tạng kinh", sau đó được liên kết với các kinh Đại thừa như Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (Prajñāparamitā) và Thập địa kinh (Daśabhūmika Sūtra).

Theo một số tài liệu, các bản A-tì-đạt-ma không được phái Đại chúng bộ xem là kinh điển. Tài liệu Đảo sử (Dīpavaṃsa) của Thượng tọa bộ ghi lại rằng Đại chúng bộ không có phần A-tì-đạt-ma. Tuy nhiên, các tài liệu khác lại chỉ ra tự tồn tại của những bộ Luận tạng như vậy, cụ thể là cả Pháp Hiển lẫn Huyền Trang đều có đề cập đến Luận tạng của Đại chúng bộ. Trên cơ sở bằng chứng văn bản cũng như bia ký ở Nāgārjunakoṇḍā, Joseph Walser kết luận rằng ít nhất một số nhánh Đại chúng bộ có lẽ đã có một tuyển tập A-tỳ-đạt-ma, và nó có thể bao gồm năm hoặc sáu quyển.

Phần Luật tạng của Đại chúng bộ đã được Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) và Pháp Hiển dịch ra Hán văn vào năm 416. Chúng hiện được bảo tồn và được xếp trong bộ Taishō Tripiṭaka, đánh số 1425.

; Nhất thiết hữu bộ ; Pháp Tạng bộ ; Hóa Địa bộ ; Ca-diếp bộ

Các truyền thống phát triển

; Kinh điển Pali ; Kinh điển Hán văn ; Kinh điển Tạng văn

Hình ảnh

Tipitaka scripture.jpg|Bản thảo Tam tạng Thái Lan TipitakaGoldPlates.jpg|Bản thảo Tam tạng trên vàng lá (Myanmar) Korea-Haeinsa Tripitaka Koreana woodblock 2770-06a.jpg|Mộc bản Đại tạng kinh bảo tồn tại Haeinsa, Hàn Quốc 022 Writing the Tipitaka (9205327270).jpg|Tranh họa cảnh chép kinh tại Wat Chiang Man, Chiang Mai (Thái Lan) Mandalay kuthodaw.jpg|Chùa Kuthodaw (Mandalay, Myanmar), nơi có 729 stupa chứa các bia đá chép kinh Bhutanese calligrapher writing gold Kangyur.jpg|Chép kinh Kangyur bằng vàng tại Bhutan
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tam tạng** (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Kinh tạng** (chữ Hán: 经藏; , , ), còn được gọi là **Tu-đa-la tạng** (修多羅藏), là một trong ba bộ phận của Tam tạng, bộ phận quan trọng cốt yếu của kinh điển Phật giáo
**Bát vạn Đại tạng kinh** (Hanja: 八萬大藏經; Hangul: 팔만 대장경; phiên âm Latin: _Palman Daejanggyeong_), còn gọi là **Cao Ly Đại tạng kinh** (高麗大藏經 / 고려 대장경) hay **Cao Ly Tam tạng** (tiếng Anh: _Tripitaka
**Luật tạng** (zh. 律藏; sa., pi. _vinaya-piṭaka_) là phần thứ hai của Tam tạng, quy định về việc sống tập thể của chư tăng, chư ni. Luật tạng có nhiều hệ khác nhau như Luật
**_Luận tạng_** (chữ Hán: 論藏), hay **_Vi diệu pháp tạng_**, **_A-tì-đạt-ma tạng_** (pa., sa.: _Abhidharma Piṭaka_) là bộ tạng thứ ba trong kinh điển Pali cùng với Luật tạng và Kinh tạng, bộ kinh điển
Tâm và tiểu trường trong Đông y bìa mềm Tim - tạng Tâm, được người xưa xếp vào loại quan trọng khi đặt tên là quân chủ Bệnh Tim mạch hiện nay cũng được coi
Tâm và tiểu trường trong Đông y bìa mềm Tim - tạng Tâm, được người xưa xếp vào loại quan trọng khi đặt tên là quân chủ Bệnh Tim mạch hiện nay cũng được coi
**Khai Bảo tạng** (), hoặc _Thục bản_ (蜀版), vì được in ở Tứ Xuyên, có lúc gọi là _Bắc Tống san kinh_ (北宋刊経) là bộ tổng tập kinh văn Phật giáo in mộc bản xuất
**Tử thư** (zh. 死書, bo. _bardo thodol_ བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་, nguyên nghĩa là "Giải thoát qua âm thanh trong Trung hữu", en. _liberation through hearing in the Bardo_) là một tàng lục (bo. _gter ma_ གཏེར་མ་), được
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
nhỏ|Phiên bản tiêu chuẩn của Kinh điển Pali Thái Lan **Kinh điển Pāli** là bộ tổng tập kinh điển tiêu chuẩn trong truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, được bảo tồn bằng ngôn
thumb|National Donor Monument, [[Naarden, Hà Lan]] **Hiến tạng** là khi một người cho phép một cơ quan của họ được cho tặng, một cách hợp pháp, hoặc bằng sự đồng ý trong khi người cho
nhỏ|phải|Ba tạng người gồm: Tạng người gầy, tạng người vạm vỡ, tạng người mập **Tạng người** (_Somatotype_) hay còn gọi là **Kiểu hình thể** là một lý thuyết phân loại cơ thể được nhà tâm
phải|nhỏ|314x314px|Một [[Tì-kheo|nhà sư Trung Á đang giảng cho một nhà sư Trung Hoa. Hang động Bezeklik, thế kỷ 9–10; mặc dù Albert von Le Coq (1913) cho rằng nhà sư tóc đỏ, mắt xanh là
phải|Các sư Tây Tạng (lama) trong một buổi lễ ở [[Sikkim]] **Phật giáo Tây Tạng** (hay còn gọi là **Lạt-ma giáo**) là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng.
Cuộc sáp nhập ** Tây Tạng của Trung Quốc**, còn được gọi theo sử học Trung Quốc là **Giải phóng Hòa bình Tây Tạng** (, ) là chỉ việc Chính phủ nước Cộng hòa Nhân
**Tình cảm bài Tây Tạng** đề cập đến sự sợ hãi, ghét, thù địch và phân biệt chủng tộc đối với người dân Tây Tạng hoặc bất cứ điều gì liên quan đến văn hóa
phải|Toàn cảnh chùa Hải Tạng**Chùa Hải Tạng** là một ngôi cổ tự trên đảo Cù lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Chùa được xây dựng vào năm 1758 (năm Cảnh Hưng thứ 19). Chùa tọa
**Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur** hay **ngữ quần Tạng-Kanaur**, còn được gọi là **ngữ quần Bod**, **ngữ quần Bod-Himalaya**, **ngữ quần Tạng-Himalaya** (藏-喜马拉雅语群) và **ngữ quần Tạng-Miến Tây**, là một cấp phân loại trung gian được
nhỏ|262x262px|Người Tạng **Người Tạng** hay **người Tây Tạng** (; ; Hán Việt: Tạng tộc) là một dân tộc bản địa tại Tây Tạng, vùng đất mà ngày nay hầu hết thuộc chủ quyền của Cộng
**_Tee Yod: Quỷ ăn tạng 2_** (tên tiếng Anh: **_Death Whisperer 2_** hay còn được gọi là **_Tee Yod 2_** (tên )) là bộ phim kinh dị siêu nhiên của Thái Lan ra mắt năm
Trong Phật giáo Đại thừa, **tam thân** (tiếng Trung: 三身, tiếng Phạn: त्रिकाय _trikāya_) là ba loại thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật—như một nhân
**Tây Tạng dưới sự cai trị của nhà Thanh** đề cập đến mối quan hệ của nhà Thanh đối với Tây Tạng từ năm 1720 đến năm 1912. Trong thời kỳ này, nhà Thanh coi
**_Địa vị Lịch sử của Tây Tạng thuộc Trung Quốc_** (, tiếng Trung giản thể: 中国西藏的历史地位) là một cuốn sách xuất bản năm 1997 bằng tiếng Anh của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung
thumb|right|[[Francis Younghusband|Col. Francis Younghusband]] **Cuộc viễn chinh Tây Tạng của Anh**, cũng được gọi là **cuộc xâm lược Tây Tạng của Anh** hoặc **cuộc viễn chinh của Younghusband đến Tây Tạng** bắt đầu vào tháng
**Tăng nhất A-hàm** (chữ Hán: 增壹阿含; tiếng Phạn: _Ekottara Āgama_) là một trong bốn bộ kinh văn A-hàm của Kinh tạng (_Sūtra Piṭaka_) Phạn ngữ. Là một kinh văn quan trọng trong Kinh điển Phật
**Càn Long Đại tạng kinh**, còn được gọi là **Càn Long tạng**, **Long tạng**, **Thanh tạng**, là phiên bản Đại tạng kinh chính thức của nhà Thanh. Đây là một trong hai phiên bản Đại
phải|nhỏ|364x364px|Bản Tâm kinh (thể [[văn ngôn) của Triệu Mạnh Phủ, một nhà thư pháp nổi tiếng đời nhà Tống]]
**Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh** (phiên latinh từ Phạn ngữ: _ Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra_,
Tây du ký được xếp vào một trong tứ đại danh tác của tiểu thuyết chương hồi thời Minh-Thanh ở Trung Quốc. Câu chuyện cầu pháp, thỉnh kinh của Huyền Trang đã sớm được biên
Tây du ký được xếp vào một trong tứ đại danh tác của tiểu thuyết chương hồi thời Minh-Thanh ở Trung Quốc. Câu chuyện cầu pháp, thỉnh kinh của Huyền Trang đã sớm được biên
**Động đất Tây Tạng 2025** là trận động đất xảy ra vào lúc 09:05 (CST), ngày 7 tháng 1 năm 2025. Trận động đất có cường độ 7,1 Mw, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km.
Tây Du Hí 6 Thần linh hay yêu quái Bị giam cầm dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm, cuối cùng Tôn Ngộ Không được Đường Tăng giúp xé bỏ phong ấn. Nhưng con khỉ lông
Combo Tây Du Ký Boxet 25 Tập Ở ngoài biển, trên ngọn núi Hoa Quả Sơn có một tảng tiên thạch. Một ngày nọ, từ trong tảng tiên thạch nổ ra một con thạch hầu.
Combo Tây Du Ký Tập 1 - 8 Bộ 8 Cuốn Ở ngoài biển, trên ngọn núi Hoa Quả Sơn có một tảng tiên thạch. Một ngày nọ, từ trong tảng tiên thạch nổ ra
nhỏ|21 ngày tuổi ấu trùng tằm trên lá dâu nhỏ|nhộng tằm nhỏ|Bóc vỏ và kéo sợi tơ, làm thủ công nhỏ|Công nghệ nuôi tằm, dệt vải xưa tại Trung Hoa **Dâu tằm tơ** (tiếng Anh:
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
**Tâm viên ý mã** (tiếng Trung: 心猿意馬, bính âm: _Xinyuanyima_; tiếng Nhật: _Ibashin'en_/意馬心猿; tiếng Việt nghĩa đen là: cái tâm như khỉ vượn, cái ý như ngựa chạy) là một cụm từ ý nghĩa tượng
**Chủ nghĩa Tam Dân** hay **Học thuyết Tam Dân** (phồn thể: 三民主義, giản thể: 三民主义) là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến đất nước Trung Hoa
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg#/media/File:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg|nhỏ|Hình ảnh của linh hồn trong triết học Rosarium. **Tâm hồn** trong nhiều truyền thống tôn giáo, triết học và thần thoại, là bản chất hợp nhất của một sinh vật. Tâm hồn trong
thumb|"[[Tế đàn họa Merode", tác phẩm được cho là của Robert Campin, khoảng 1427–32]] thumb|[[Hieronymus Bosch, _Khu vườn lạc thú trần tục_, 1490–1510. Bảo tàng Prado, Madrid]] **Tam liên họa** (tiếng Anh: **triptych** , nguồn
**Tâm lý học đám đông** là một nhánh của Tâm lý học xã hội nghiên cứu về tâm lý và hành xử của một người bình thường trong những hoạt động mang tính chất tập
thumb|alt=Kidney transplants rose from about 3,000 in 1997 to 11,000 in 2004, falling to 6,000 in 2007. Liver transplants rose from a few hundred in 2000 to 3,500 in 2005, then dropped to 2,000 in
**Thích Nguyên Tạng**, là một tu sĩ Phật giáo người Úc gốc Việt, pháp tự **Tịnh Tuệ**, pháp hiệu **Phổ Trí** là một tu sĩ Phật giáo, chủ biên trang nhà Quảng Đức. Đồng thời
QUÀ TẶNG: 40g Hồng sâm lát tẩm mật ong KGS .t.r.ị. giá 240.000đ với đơn hàng mua 3gam ĐTHT Tây Tạng– Phòng khám Y Tâm Đường hoạt động khám .c.h.ữ.a. bệnh bằng YHCT hơn 10
Sáng 19/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát động phong trào “Hiến tặng mô, tạng - Cho đi là còn mãi” và cho biết cá nhân ông cùng gia đình đăng ký hiến mô tạng
Sáng 19/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát động phong trào “Hiến tặng mô, tạng - Cho đi là còn mãi” và cho biết cá nhân ông cùng gia đình đăng ký hiến mô tạng
**Địa Tạng** hay **Địa Tạng Vương** (skt. , _Kṣitigarbha_; ; jap. , _Jizō_; tib. , _sa'i snying po_, kor.: , , _ji jang_, _ji jang bosal_) hay Địa Tạng vương Bồ tát là một vị