✨Mitanni

Mitanni

Mitanni () là quốc gia của người Hurria ở phía bắc Lưỡng Hà vào khoảng 1500 TCN, vào thời đỉnh cao của mình trong thế kỷ 14 TCN quốc gia này bao gồm lãnh thổ phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, phía bắc Syria và bắc Iraq ngày nay, với trung tâm là thủ đô Washshukanni (Al Hasakah ngày nay). Vào thời kỳ đế quốc Assyria mới, cái tên Mitanni để chỉ vùng đất giữa hai con sông Khabur và Euphrates.

Các tài liệu lịch sử về Mitanni không được tìm thấy nhiều, phần lớn hiện nay là các tài liệu của Assyria, Hittite và Ai Cập cũng như các bia khắc ở Syria.

Người ta tin rằng cuộc chiến giữa các bộ tộc Hurria với các thành bang đã dẫn đến sự ra đời của một vương triều mới sau sự sụp đổ của Babylon trước cuộc chinh phạt của Mursili I của đế quốc Hittite và cuộc xâm lược của người Kassite. Cuộc chinh phạt của người Hittite, sự suy yếu của vương quốc Assyria, và sau đó là các cuộc nội chiến ở Hitttite đã tạo ra những khoảng trống quyền lực ở bắc Lưỡng Hà. Những điều đó đã góp phần tạo ra vương quốc Mitanni.

Vua Barattarna của Mitanni đã mở rộng lãnh thổ về phía tây đến Halab (Aleppo), Kizzuwatna cũng bị phụ thuộc, và đến giữa thế kỷ 15 TCn thì cả Arrapha và Assyria đều là chư hầu của Mitanni. Mitanni phát triển mạnh mẽ dưới triều vua Shaushtatar, nhưng người Mitanni không thể vươn ra ngoài cao nguyên Anatolia do sự ngăn trở của người Hittite. Kizzuwatna và Ishuwa là những đồng minh quan trọng của Mitanni để chống lại Hittite.

Sau một vài xung đột với Ai Cập trong việc tranh giành Syria, Mitanni đã nghị hoà và thiết lập quan hệ đồng minh với Ai Cập. Vào đầu thế kỷ 14 TCN quan hệ của Mitanni với Ai Cập rất tốt và vua Shuttarna đã gả công chúa Gilukheppa cho Pharaoh Amenhotep III. Đây là thời đỉnh cao của Mitanni.

Sau cái chết của Shuttarna, Mitanni rơi vào cuộc tranh chấp ngôi báu. Cuối cùng thì con trai của Shuttarna là Tushratta lên ngôi. Tuy nhiên Mitanni đã bị suy yếu và bị Hittite lấn chiếm biên giới. Lúc này quan hệ với Ai Cập trở nên lạnh nhạt còn Assyria thì đã vùng lên chống lại. Vua Suppiluluima I của Hittite đã xâm chiếm các nước chư hầu của Mitanni ở bắc Syria và cai trị những nơi này.

Tại thủ đô Washukanni một cuộc đấu đá mới diễn ra, giữa các thế lực được Hittite và Assyria ủng hộ, Cuối cùng quân đội Hittite đã chiếm Washukanni và lập Shattiwaza, con trai của Tushratta lên làm vua. Mitanni trở thành chư hầu của Hittite. Tuy nhiên vào thế kỷ 13 TCN người Assyria đã đánh bại Mitanni và biến nó thành lãnh thổ của mình.

Lịch sử

Thời kỳ khai quốc

Người Hurria đã sống ở phía đông sông Tigris, phía bắc Lưỡng Hà và thung lũng Khabur. Một bộ phận đã di cư xuống phía nam vào trước thế kỷ 17. Eusebius, viết vào thế kỷ 4, trích dẫn từ Eupolemus-sử gia người Do Thái thế kỷ 2 TCN, rằng "vào thời Abraham, người Armenia xâm lược Syria". Điều này gần khớp với sự xuất hiện của người Mitanni, vì Abraham được cho là sống vào khoảng thế kỷ 17 TCN. Người Mitanni được nhắc tới trong các văn bản Nuzi, Ugarit và được người Hittite cất trữ ở Hattushsha. Các văn bản Cuneiform từ Mari nói đến những người thống trị các thành bang ở bắc Lưỡng Hà với các tên Amorite và Hurria. Các kẻ thống trị ở Urshum và Hashshum cũng có tên Hurria. Không có các bằng chứng rõ rệt về một cuộc xâm lấn từ hướng đông bắc. Các bằng chứng chỉ ra rằng người Hurria đến từ phía nam và tây.

Theo truyền thuyết thì vị vua đầu tiên sáng lập Mitanni là Kirta. Tuy nhiên không ai biết gì về các vị vua đầu tiên của Mitanni.

Các vị vua

Barattarna/Parsha(ta)tar

Vua Barattarna được nhắc đến trong các bản khắc ở Nuzi, nhưng các tài liệu Ai Cập không thấy đề cập đến. Có giả thiết rằng Barattarna là vị vua đã chiến đấu chống lại Pharaoh Thutmose III ở thế kỷ 15 TCN. Người ta vẫn đang tranh luận xem Barattarna và Parsha(ta)tar có phải là cùng một người không ?

Dưới triều vua Thutmose III, quân Ai Cập vượt qua sông Euphrate và tiến vào trung tâm lãnh thổ Mitanni. Tại Megiddo, quân Ai Cập giao tranh với liên quân Syria, các lãnh chúa Kadesh và quân Mitanni. Sau trận Megiddo, không rõ có tồn tại một hiệp ước nào không, nhưng Ai Cập đã thắng lợi trong việc mở đường tiến lên phương bắc.

Thutmose III lột lần nữa phát động chiến tranh vào năm thứ 33 trong triều đại của mình. Quân AI Cập vượt qua Carchemish tới một thị trấn tên là Iryn (có thể là Erin ngày nay, cách Aleppo 20 km về hướng tây bắc). Quân Ai Cập vượt sông Euphrate đến Emar (Meskene) rồi trở lại Syria. Các vùng đất miền trung Orontes và Phoenicia trở thành lãnh thổ của Ai Cập.

Barattarna và con trai Shaushtatar kiểm soát miền bắc Syria và vùng duyên hải kéo dài từ Kizzuwatna tới Alalakh.

Shaushtatar

Shaushtatar đã cướp phá Assur vài lần trong thế kỷ 15 TCN. Ông đã lấy các cánh cửa bằng vàng bạc mang về Washukanni. Điều này được nhắc đến trong hiệp ước giữa Suppililiuma và Shattiwaza sau này.

Sau khi Assur bị cướp phá, Assyria có thể phải cống nạp cho Mitanni. Trong thời gian là chư hầu của Mitanni, các đền thờ Sin và Shamash đã được xây dựng ở Assur.

Aleppo, Nuzi, và Arrapha được sáp nhập vào Mitanni dưới triều vua Shaushtatar. Quân đội Mitanni nổi tiếng với tài điều khiển chiến xa. Các văn bản nói về việc huấn luyện ngựa chiến được viết bởi Kikkuli đã được tìm thấy ở Hattusa. Vào thời của Pharaoh Amenhotep II, Mitanni đã giành lại được ảnh hưởng ở miền trung Orontes.

Artatama I và Shuttarna II

Về sau Ai Cập và Mitanni trở thành đồng minh. Bản thân vua Shuttarna II được tiếp đón tại Ai Cập. Giữa hai bên có những trao đổi thư từ và những món quà xa xỉ. Mitanni đặc biệt có hứng thú với vàng của Ai Cập. Điều này dẫn tới các đám cưới giữa hoàng tộc hai bên: con gái của Artatama I và Thutmose IV. Kilu-Hepa hay Gilukhipa, con gái Shuttarna II lấy Amenhotep III. Sau này Tadu-Hepa hay Tadukhipa, con gái Tushratta cũng được gả sang Ai Cập.

Khi Amenhotep III bị ốm, vua Mitanni đã gửi bức tượng thần Shaushka (Ishtar) của Niniveh sang để cầu phúc. Đường biên giới giữa Ai Cập và Mitanni là ở gần Qatna. Ugarit thuộc về Ai Cập.

Artashumara và Tushratta

Artashumara kế vị ngai vàng của Shuttarna II nhưng lại bị ám sát bởi UD-hi hay Uthi. Sau đó Uthi thay thế Tushratta, một người con khác của Shuttarna II. Có giả thiết rằng Uthi có được sự ủng hộ của Ai Cập trong việc này.

Lợi dụng tình trạng bất ổn tại các chư hầu của Mitanni, Aziru của Amurru đã bí mật hợp tác với Hittite. Vua Suppiluliuma của Hittite đã chiếm lại Kizzuwatna. Suppiluliuma cũng cướp vùng đất phía tây của thung lũng Euphrate và Amurru, Nuhashshe từ Mitanni.

Suppiluliuma đã kí hiệp ước với Artatama II, đối thủ của Tushratta. Suppiluliuma tiến hành thôn tính các vùng đất ở phía tây sông Euphrate. Tushratta đe doạ sẽ làm cỏ Euphrate.

Suppiluliuma muốn giành lại Ishuwa, vùng đất mà người Hittite đã để mất vào tay Mitanni ngày trước. Quân Hittite vượt qua biên giới và chiếm lại được Ishuwa. Hittite còn nhiều lần tấn công Washukanni. Suppiluliuma yêu sách về nhiều thứ.

Trong chiến dịch lần thứ hai, quân Hittite chiếm được Halab, Mukish, Niya, Arahati, Apina, and Qatna cũng như một vài thành phố khác chưa rõ tên. Hittite thu nhiều chiến lợi phẩm và chiến xa đưa về Hatti. Để đối phó với lực lượng chiến xa hùng mạnh của Mitanni, Hittite cũng đã nâng cấp chiến xa của mình.

Shattiwaza

Một người con của Tushratta làm phản, giết chết ông ta rồi kên ngôi. Một người con khác là Shattiwaza buộc phải bỏ trốn. Nhân đó, người Assyria giành lại độc lập, Mitanni đã phải trao lại những cánh cửa mà họ cướp được ở Assur trước đây.

Shattiwaza đầu tiên chạy sang Babylon, sau đó sang Hittite. Vua Hittite đã gả con gái cho Shattiwaza. Suppiluliuma đã ký hiệp ước với Shattiwaza. Sau đó Piyashshili, con trai của Suppiluliuma đã đem quân giúp Shattiwaza quay về Mitanni. Quân Hittite vượt qua Euphrate, giao chiến với người Irrdu ở Hurrite. Quân Hittite đã thắng.

Trong khi đó quân Assyria tiến đến Washukanni. Có vẻ như Mitanni đã cầu viện Assyria để chống lại Hittite, nhưng Assyria lại từ chối. Shuttarna đành đầu hàng Hittite. Quân Assyria rút lui để tránh đối mặt với quân lực hùng hậu của Hittite.

Shattiwaza trở thành vua của Mitanni. Tuy nhiên chính quyền bị khống chế bởi Hittite và lãnh thổ bị thu hẹp. Hittite lợi dụng Mitanni để chống lại Assyria.

Shattuara I

Các tài liệu của Adad-ninari I (1307-1275 TCN) mô tả quan hệ giữa Shattuara I và Assyria. Adad-ninari I đã bắt Shattuara về Assur và sau này mới thả về Mitanni. Shattuara đã phải chịu những khoản cống nạp nặng nề cho Assyria. Lúc này ở Hittite đang là triều vua Mursili II.

Wasashatta

Ghen ghét trước sự hùng mạnh của Assyria, con trai của Shattuara là Wasashatta đã chống đối. Ông đã cầu viện Hittite nhưng bản thân Hittite lúc này đang vướng phải nội chiến do việc Hattusili III cướp ngôi cháu mình là Urhi-Teshup. Hittite có viện trợ tiền cho Mitanni nhưng không giúp đỡ về quận sự.

Assyria tấn công Taidu, chiếm Washshukannu, Amasakku, Kahat, Shuru, Nabula, Hurra và Shuduhu. Assyria còn tấn công Irridu, phá huỷ nó hoàn toàn và rắc muối lên trên đó. Vợ và con cái của Wasashatta bị bắt về Asshur còn bản thân ông thì chạy thoát. Một vài học giả nghĩ rằng ông ta đã chạy đến Shuriba (một thành bang của Mitanni) và trở thành người cai trị ở đó.

Trong cuộc chinh phạt Mitanni, Adad-ninari I không vượt qua Euphrate và Carchemish vẫn thuộc về Hittite. Adad-ninải đã gửi thư yêu cầu vua Hittite công nhận mình ngang hàng.

Shattuara II

Shattuara II, con trai hoặc cháu trai của Wasashatta đã nổi dậy chống lại vua Shalmaneser I (1270-1240 TCN) của Assyria. Ông được sự giúp đỡ của Hittite và bộ lạc Ahlamu. Thế nhưng Shalmaneser I đã giành chiến thắng vang dội. Quân Assyria đã tàn sát 14400 người. Theo các tài liệu ca ngợi chiến công của Shalmaneser I thì 180 thành phố của người Hurria bị tàn phá, quân Hittite và Ahlamu bị giết như những con cừu, các thành phố từ Taidu cho đến Irridu bị thất thủ.

Hanilgalbat

Một bộ phận dân chúng bị lưu đày và lao dịch. Nhà cầm quyền phải phân phát lúa mạch cho dân chúng. Assyria đã xây dựng một hệ thống thành lũy kiên cố để chống lại Hittite.

Ili-ippada, một thành viên trong hoàng tộc Assyria đã trở thành vua của Mitanni (lúc này có tên gọi là Hanilgalbat như là một tỉnh của Assyria). Assyria kiểm soát về quân đội và chính trị nhưng không kiểm soát giao thương.

Dưới thời vua Tukulti-Ninurta I (1243-1207 TCN) lại có một lượng lớn người tị nạn chạy từ Mitanni đến Asshur, tham gia vào việc xây dựng các cung điện. Vua Hittite đã tiến hành một cuộc xâm lược Hanilgalbat, kích động bạo loạn. Các thành phố của Assyria bị cướp phá.

Dưới thời Assur-nirari III, người Mushku và các bộ lạc khác xâm lược Hanilgalbat. Người Hurria vẫn nắm giữ Katmuhu và Paphu.

Thời kỳ đế quốc Assyria mới

Trong vài thế kỷ, Washukanni bị Assyria đô hộ. Người Mitanni dường như đã xây dựng lại một thành bang mới là Urartu ở phía bắc. Vào thời của Adad-nirari II, Assurbanipal II và Shalmaneser III cái tên Hanilgalbat vẫn được sử dụng.

Danh sách các vua Mitanni

Kirta: 1.500 TCN

Shuttarna I (đầu thế kỷ XV TCN)

Parshatatar: ? - 1420 TCN

Shaushtatar: 1420 - ? TCN, con trai của Parshatatar

Artatama I (cuối thế kỷ XV TCN), ông ngoại của pharaoh Amenkhotep III Ai Cập

Shuttarna II (đầu thế kỷ XIV), con trai của Artatama I

Artashumara (vài tháng), kẻ cướp ngôi và bị ám sát không lâu sau đó

Tushratta (đầu thế kỷ XIV - giữa thế kỷ XIV), anh trai của kẻ cướp ngôi Artashumara; bị ám sát do âm mưu của vua Hittites Suppiluliuma

Artatama II (cuối thế kỷ XIV), kẻ cướp ngôi và là anh trai của Tushratta

Shuttarna III (vài năm ở cuối thế kỷ XIV), con trai của Artatama II

Shattiwaza (cuối thế kỷ XIV), con trai của Tushratta và được quân Hittites đặt lên ngôi

Shattuara (đầu thế kỷ XIII TCN), chư hầu của vua Assyria

Wasashatta (đầu thế kỷ XIII TCN), con trai của vua 12; bị quân Assyria bắt giam sau khi khởi nghĩa bất thành

Shattuara II (đầu thế kỷ XIII)

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mitanni** () là quốc gia của người Hurria ở phía bắc Lưỡng Hà vào khoảng 1500 TCN, vào thời đỉnh cao của mình trong thế kỷ 14 TCN quốc gia này bao gồm lãnh thổ
**_Dòng sông huyền bí_** (Nhật: 天は赤い河のほとり / _Sora wa Akai Kawa no Hotori: Anatolia Story_; Anh: _Red River_) là một shōjo manga lịch sử cổ đại của mangaka Shinohara Chie. Truyện được Shogakukan xuất bản
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Amenhotep II** (hay **Amenophis II**, có nghĩa là "Thần Amun hài lòng") là vị pharaon thứ bảy của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Amenhotep thừa hưởng vương quốc rộng lớn từ vua cha
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Thutmosis IV** (hay **Thutmose IV** hoặc **Tuthmosis IV**, có nghĩa là "thần Thoth sinh ra"), là vị pharaon thứ tám của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Tên prenomen hay tên hoàng gia của
**Amenhotep III** (tên Hy Lạp hóa là **Amenophis III**; tên tiếng Ai Cập: **Amāna-Ḥātpa**; dịch nghĩa: _Amun đẹp lòng_), còn gọi là Amenhotep Vĩ Đại là vị pharaon thứ 9 thuộc Vương triều thứ 18
**Kiya** là một trong những phối ngẫu của Pharaon Akhenaten thời kỳ Vương triều thứ 18. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn. Trong những năm
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
**Amenhotep I**, hay **Amenophis I**, là vị pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 18 thuộc Ai Cập cổ đại. Ông là con trai vua Ahmose I và khi vua cha qua đời,Amenhotep I nối
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Nefer-neferuaten Nefer-titi** (; khoảng 1370 TCN – khoảng 1330 TCN) là Vương hậu Ai Cập và là vợ cả của Pharaoh Akhenaten, thường được biết qua danh hiệu **Amenhotep IV**. Nefertiti và chồng được biết
phải|nhỏ| Một trong những "Thư Amarna" EA 19 đàm phán về một cuộc hôn nhân giữa [[Amenhotep III và con gái của Tushratta, Tadukhipa ]] **Tadukhipa**, hoặc **_Tadu-Hepa_** theo ngôn ngữ Hurrian, là con gái
**Thế kỉ 15 TCN** bắt đầu từ ngày đầu tiên của năm 1500 TCN và kết thúc vào năm 1401 TCN. ## Sự Kiện thumb|right|Tượng [[Thutmosis III ở bảo tàng Museum, Vienna]] Ai Cập chinh
**Vàng** hay **kim** là nguyên tố hóa học có ký hiệu **Au** (lấy từ hai tự mẫu đầu tiên của từ tiếng La-tinh _aurum_, có nghĩa là vàng) và số nguyên tử 79, một trong
phải|nhỏ|Biểu tượng của Ấn Độ giáo được thế giới biết đến nhỏ|phải|Một ngôi đền Ấn Độ giáo **Ấn Độ giáo**, **Ấn giáo** hay **Hindu giáo** (Hưng đô giáo) là một tôn giáo, hệ thống tín
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Dãy núi Zagros** (), (), (Sorani Kurd: Zagros - زاگرۆس), là dãy núi lớn nhất nằm trên biên giới Iran và Iraq. Nó có tổng chiều dài khoảng 1.500 km từ miền tây Iran, trên biên
**Tiếng Hurri** là một ngôn ngữ Hurri-Urartu, là ngôn ngữ của người Hurri, một dân tộc di cư đến Lưỡng Hà vào khoảng 2300 TCN, rồi gần như biến mất khoảng 1000 TCN. Tiếng Hurri
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Elaborate_Box_with_Cartouche_of_Amenhotep_III_-_Side_View.jpg|nhỏ|Chiếc rương chạm khắc tinh xảo có mang tên của [[Amenhotep III được chôn trong KV46]]**Yuya** (hay **Iouiya**, **Yaa**, **Ya**, **Yiya**, **Yayi**, **Yu**, **Yuyu**, **Yaya**, **Yiay**, **Yia**, and **Yuy**) là một nhân vật quyền lực
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Tutankhamun** (); phát âm theo tiếng Ai Cập cổ là **Tutankhamen** là một pharaon Ai Cập thuộc Vương triều thứ 18, trị vì vào khoảng những năm 1332-1323 TCN (theo bảng niên đại quy ước),
**Arkaim** là một di chỉ khảo cổ nằm ở vùng thảo nguyên Nam Ural, khoảng 8,2 km (5,1 dặm Anh) về phía bắc tây bắc làng Amursky, và khoảng 2,3 km (1,4 dặm Anh) về phía nam
Sự phân bố của văn hóa Andronovo. Mày đỏ sẫm là hệ tầng Sintashta-Petrovka-Arkaim. Màu tím là các nơi mai táng, trong đó phát hiện các cỗ xe gia súc kéo với nan hoa tại
**Chariots of War** (tạm dịch: _Chiến Xa_) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực và chiến lược theo lượt với đồ họa 3D lấy bối cảnh chiến tranh thời
**Jericho** ); là một thành phố nằm gần Sông Jordan ở Bờ Tây thuộc các vùng lãnh thổ Palestine. Đây là thủ phủ của tỉnh Jericho và có số dân trên 20.000 người. Nằm ở
**Người Hittite** (Ḫa-at-tu-ša / 𒄩𒀜𒌅𒊭) có gốc là người Anatolia cổ đại đã thành lập một đế chế tập trung tại Hattusa ở Anatolia Bắc Trung Đông khoảng năm 1600 TCN. Đế chế này đạt
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
nhỏ|Tiye, phần tượng bị gãy là chồng bà, Amenhotep III|thế=|266x266px **Tiye** (khoảng 1398 TCN - 1338 TCN), còn được viết là **Taia**, **Tiy** và **Tiyi**. Bà là "Người Vợ Hoàng gia Vĩ đại" của vua
**Mutemwiya** (hay **Mutemwia**, **Mutemuya**, **Mutemweya**) là một thứ phi của Pharaon Thutmose IV và là mẹ của Pharaon Amenhotep III. Bà không được nhắc đến trong suốt thời gian trị vì của chồng, và chỉ
**Maathorneferure** là một Vương hậu của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 19. Bà là một trong 7 vương hậu chính cung được sắc phong của Pharaon vĩ đại nhất trong lịch sử
**Khaemwaset** (hay **Khaemweset**) là một hoàng tử thuộc Vương triều thứ 19 trong lịch sử Ai Cập cổ đại, là anh ruột của pharaon Merneptah. Ông được mệnh danh là nhà Ai Cập học đầu
**Kemune** (có thể là thành phố cổ **Zakhiku**) là một địa điểm khảo cổ được phát hiện ở hồ chứa của Đập Mosul trong vùng Kurdistan thuộc Iraq vào năm 2010, và được khai quật
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
**Canaan** (; Tiếng Phoenicia: 𐤊𐤍𐤏𐤍 – ; – , in pausa – ; – ; – ) là một nền văn minh nói tiếng Semit và khu vực lịch sử tại Nam Levant thuộc vùng
thumb|Bán cầu Đông năm 1400 TCN thumb|Cốc uống rượu, [[Nhà Thương, thế kỷ 13 TCN, Phòng tranh Arthur M. Sackler.]] thumb|Phía bắc [[Đấu trường La Mã]] **Thế kỉ 14 TCN** bắt đầu từ ngày đầu
nhỏ| [[Yerevan với Núi Ararat ở phía sau ]] **Lịch sử Armenia** kéo dài vài thiên niên kỷ kể từ thời tiền sử. Sau khi định cư, người Armenia đã phát triển một nền văn
**Thời đại đồ đồng** là một thời kỳ trong sự phát triển của nền văn minh khi phần lớn công việc luyện kim tiên tiến (ít nhất là trong sử dụng có hệ thống và