✨Kiya

Kiya

Kiya là một trong những phối ngẫu của Pharaon Akhenaten thời kỳ Vương triều thứ 18. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn. Trong những năm về trước, Kiya được cho là mẹ của Pharaon Tutankhamun, nhưng bằng chứng DNA vào năm 2010 cho thấy điều này không xảy ra.

Tên gọi và danh hiệu

Cái tên Kiya được chú ý đến vào năm 1959, khi C. Aldred lần đầu phát hiện các ký tự tượng hình đọc là "Kia" trên một tấm bia từ Nekhen có niên đại từ thời Amarna, vốn là phần còn sót lại của một cái tên. Tuy nhiên, không rõ Kia này có liên quan gì đến thứ phi Kiya không, vì cái tên Kiya có thể được đặt cho cả nam và nữ.

Vào năm 1920, Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan mua được một chiếc bình bằng canxit còn khá nguyên vẹn. Cũng vào năm 1959, W. C. Hayes đã dịch dòng chữ khắc trên bình và là người đầu tiên nhận ra, Kiya, còn đọc là Keya, là một thứ phi chưa được biết đến trong hậu cung của Akhenaten.

Một mảnh vỡ từ bình canxit khác được Bảo tàng Anh mua lại có nhắc đến Kiya (số hiệu EA 65901). Mảnh này còn mang khung cartouche mang các tên hiệu của Pharaon Akhenaten. Danh hiệu đầy đủ của Kiya được nhắc đến trên đó như sau: "Người vợ được yêu quý và sủng ái của Chủ nhân Thượng và Hạ Ai Cập, tin vào Sự thật, Chúa tể của Hai vùng đất, Neferkheperure Waenre, đứa con xinh đẹp của thần Aten vĩnh cữu, người sẽ mãi mãi trường tồn, Kiya". đặc biệt là 4 chiếc bình canopic từ ngôi mộ KV55 của Kiya (một bình được lưu giữ tại bảo tàng Metropolitan, 3 bình còn lại đang ở Bảo tàng Ai Cập). Kể từ khi được phát hiện vào năm 1907, chủ nhân của những chiếc bình canopic này từng được xác định là vương hậu Tiye (mẹ của Akhenaten), Nefertiti (chính cung của Akhenaten), hay của chính Akhenaten. Tuy đã bị sửa xóa nhưng các dòng chữ mờ còn sót lại cho thấy, chiếc bình này khả năng cao là của Kiya, cũng như bộ tóc giả kiểu Nubia thường gắn liền với bà.

Một số nhà Ai Cập học cho rằng, Kiya là một biệt danh, được viết gọn từ một cái tên dài hơn. Theo C. Aldred, cái tên Kiya có thể bắt nguồn từ ky, tiếng Ai Cập có nghĩa là "con khỉ".

Thân thế

Công chúa ngoại quốc

Dựa theo Câu chuyện về hai anh em dưới triều đại Seti II (Vương triều thứ 19), L. Manniche là người đầu tiên đưa ra giả thuyết rằng, Kiya là người đến từ vương quốc Mitanni (mà người Ai Cập thời đó gọi là Naharin). Câu chuyện này có đoạn nói về một vị vua Ai Cập phải lòng một cô gái ngoại bang đến từ vùng Thung lũng Cây thông (được cho là đâu đó ở Bắc Syria hoặc vùng Tiểu Á), khi tìm được cô, nhà vua ban tên là Ta-Shepset (tạm dịch: "đại phu nhân").

Một văn bản biên chép tài sản của Kiya vào năm trị vì thứ 11 của Akhenaten được tìm thấy có xuất hiện danh hiệu špst này. Ngoài ra, Thutmose IV, ông nội của Akhenaten, cũng từng cưới một công chúa Naharin là Henutempet, và Henutempet cũng được gọi là tꜣ špst Nhrn. Có thể trong suốt Vương triều thứ 18, cụm từ tꜣ špst được trao cho các công chúa ngoại bang, vì vậy không loại trừ khả năng Kiya xuất thân từ vương thất Mitanni. A. Cabrol cũng đồng tình rằng Kiya và Tadukhipa là cùng một người; hơn nữa, con gái của Kiya sẽ là Beketaten.

Đột ngột biến mất

nhỏ|253x253px|[[Phù điêu mô tả một phụ nữ đang thực hiện nghi lễ thanh tẩy, được cho là Kiya nhờ vào bộ tóc giả kiểu Nubia (Bảo tàng MET)]] Khoảng những năm 1920, các nhà nghiên cứu nhận thấy tên của Meritaten, con gái trưởng của Akhenaten và Chính cung Nefertiti, tại đền Maru-Aten vốn là tên thay thế cho một cái tên khác, tương tự, kiểu tóc và phần đầu trên các phù điêu cũng có hiệu chỉnh sửa; đôi chỗ còn được thay bằng tên của Ankhesenpaaten (con gái thứ ba của Akhenaten và Nefertiti). Năm 1975, R. Hanke cũng chỉ ra rằng, ký tự tượng hình trong tên hiệu của Nefertiti quá dài để có thể đặt vừa vào chỗ tên bị thay thế, hơn nữa, tên của Kiya lại vừa khớp hoàn toàn với các vị trí này. Bộ ba không tên như vậy còn được nhìn thấy trên một khối đá khác, mà trên đó tên người phụ nữ còn sót lại một phần sau giống với tên Kiya. Ngoài ra, có hai cái tên được nhắc đến là Meritaten Tasherit và Ankhesenpaaten Tasherit làm dấy lên tranh cãi, hoặc đó là tên của những đứa con sinh ra do Akhenaten loạn luân với hai người con gái của ông (Meritaten và Ankhesenpaaten), hoặc đó là con của Kiya nhưng đã bị sửa tên; nếu như vậy thì con gái của Kiya có tên là ...-ta-sherit.

Không rõ kết cục của Kiya. Theo Krauss, Kiya quay trở về cố hương khi Akhenaten qua đời, còn C. Vandersleyen thì cho rằng, bà biến mất sau khi xảy ra xung đột giữa Ai Cập và Mitanni. Từ những bằng chứng Kiya bị thay tên, W. Helck đoán rằng, mẹ con Kiya trở nên thất thế sau khi Akhenaten qua đời, và những người con gái của Nefertiti chiếm đoạt các công trình dành cho bà.

Xác ướp Younger Lady và lăng mộ KV55

Một số nhà Ai Cập học suy đoán rằng, Kiya là chủ nhân của xác ướp Younger Lady được phát hiện ở lăng mộ KV35. Nhưng vào năm 2010, kết quả phân tích DNA cho thấy, xác ướp Younger Lady này được khẳng định là mẹ đẻ của Pharaon Tutankhamun, và cũng là chị em ruột cùng cha (Amenhotep III) cùng mẹ (Tiye) với Akhenaten. Vì Kiya, và cả Nefertiti, chưa bao giờ được gọi là "Chị em gái của Nhà vua" nên chắc chắn xác ướp này không phải của hai bà.

Quay trở lại lăng mộ KV55, nơi phát hiện 4 bình canopic của Kiya, người ta còn tìm thấy một cỗ quan tài bằng gỗ mạ vàng có đặt xác một người đàn ông. Perepelkin phát hiện rằng, cỗ quan tài này có khắc danh hiệu của Kiya như trên bình canopic. J. P. Allen cũng đồng tình với Perepelkin và Hanke, vì Allen cũng nhận thấy rằng, ở phần chân quan tài, tên của Kiya bị thay thế bởi hình ảnh một vị thần.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kiya** là một trong những phối ngẫu của Pharaon Akhenaten thời kỳ Vương triều thứ 18. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn. Trong những năm
**Meritaten** (tiếng Ai Cập: _mrii.t-itn_), còn được viết là **Merytaten**, là một công chúa sống vào cuối thời kỳ Vương triều thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Tên của bà có ý nghĩa là
**Ankhkheperure Smenkhkare Djeser Kheperu** (còn gọi **Smenkhkare**, hay **Smenkhare** hoặc **Smenkare**, có nghĩa "Sinh lực là linh hồn của thần Ra") là pharaon ngắn ngủi của Vương triều thứ 18, người được xem là người
nhỏ|Tiye, phần tượng bị gãy là chồng bà, Amenhotep III|thế=|266x266px **Tiye** (khoảng 1398 TCN - 1338 TCN), còn được viết là **Taia**, **Tiy** và **Tiyi**. Bà là "Người Vợ Hoàng gia Vĩ đại" của vua
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
**Salman Khan** (phát âm: [səlma ː n xa ː n]; tên đầy đủ **Abdul Rashid Salim Salman Khan** sinh ngày 27 tháng 12 năm 1965), là diễn viên Ấn Độ, đóng trong hơn 80 bộ
**Katrina Kaif** (tiếng Kashmir: क़त्रीना कैफ़ (Devanagari), قطرینہ کیف (Nastaleeq), sinh ngày 16 tháng 7 năm 1984) là nữ diễn viên người Anh gốc Ấn Độ và cựu người mẫu đã xuất hiện trên nhiều
**Ankhesenpaaten Tasherit** ("_Ankhesenpaaten trẻ_"), còn được viết là **Ankhesenpaaten-ta-sherit**, được cho là một công chúa Ai Cập cổ đại sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18. Danh tính của công chúa này vẫn chưa
**Meritaten Tasherit** ("_Meritaten trẻ_"), còn được viết là **Meritaten-ta-sherit**, được cho là một công chúa Ai Cập cổ đại sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18. Danh tính của công chúa này vẫn chưa
**Amarna** (tiếng Ả Rập: العمارنة, _al-ʿamārnah_) là một thành phố cổ xưa ở Ai Cập được xây dựng bởi pharaon Akhenaten của Vương triều thứ 18 và bị bỏ hoang ngay sau cái chết của
**Beketaten** (tiếng Ai Cập: _bꜣk.t-itn_) là một công chúa Ai Cập cổ đại sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18. Tên gọi của công chúa có nghĩa là "_Người hầu gái của Aten_". ##
**Power Rangers Ninja Storm** là series Power Rangers thứ 10, chuyển thể từ Ninpuu Sentai Hurricanger. Đây là series đầu tiên thuộc bản quyền công ty Walt Disney sau khi mua lại thương hiệu Power
**Sushmita Sen** (sinh ngày 19 tháng 11 năm 1975) là một nữ hoàng sắc đẹp của Ấn Độ. Cô từng đoạt danh hiệu Hoa hậu Ấn Độ 1994 và Hoa hậu Hoàn vũ 1994. Hiện
được đặt tên theo tên của James Curtis Hepburn, người đã dùng hệ này để phiên âm tiếng Nhật thành chữ cái Latinh ở phiên bản thứ 3 từ điển Nhật - Anh của ông,
**Shakugan no Shana** (灼眼のシャナ) là một bộ light novel được viết bởi tiểu thuyết gia Takahashi Yashichiro và được minh họa bởi Ito Noizi, cốt truyện xoay quanh Sakai Yuji một anh chàng đang học
thumb|right|Mũi Aya **Mũi Aya**, tức **mũi đất Aya** (; ; ; trong tiếng Hy Lạp Άγια có nghĩa là "vật thiêng"), là một mũi đất nhô ra biển Đen từ phía đông nam Balaklava (nay
**Nefer-neferuaten Nefer-titi** (; khoảng 1370 TCN – khoảng 1330 TCN) là Vương hậu Ai Cập và là vợ cả của Pharaoh Akhenaten, thường được biết qua danh hiệu **Amenhotep IV**. Nefertiti và chồng được biết
**Tỉnh Batken** (Tiếng Kyrgyz: **Баткен облусу**, _Batken oblusu_; ) là một tỉnh (_oblast_) của Kyrgyzstan. Thủ phủ đặt tại Batken. Phía đông giáp Tỉnh Osh, phía Tây và phía Bắc giáp tỉnh Sughd của Tajikistan
**Ankhesenpaaten** (khoảng 1347 TCN - 1323 TCN) là một công chúa và vương hậu thuộc thời kỳ Amarna, Vương triều thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Bà kết hôn với người em trai khác
**_Abakania_** là một chi bọ ba thùy đã tuyệt chủng thuộc họ Corynexochidae. Chúng sống trong tầng Botom, ## Phân bố * _A. superba_ xuất hiện ở thống Terreneuve của Liên bang Nga (tầng Botom,
[[Tập tin:San-nin Kichisa Kuruwa no Hatsu-gai 1860 by Toyokuni III.jpg|thumb|"Sannin Kichisa Kuruwano hatsugai" ---- Ngày 14 tháng Giêng An Chính năm thứ 7(ngày 05 tháng 02 năm 1860), cảnh "Gò đất Koushinzuka bên bờ sông
**Shivangi Joshi** (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1998 tại Pune, bang Maharashtra, Ấn Độ) là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ tham gia các bộ phim truyền hình
**Surbhi Jyoti** (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1988) là một nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ được biết đến với vai diễn Zoya/Sanam trong Qubool Hai và Bella Mahir Sehgal/Sharvani Mihir Sippi trong
đôi khi được gọi là **Sakuma Zōzan**, tự **Tử Địch** (子迪 してき) sau xưng là **Tử Minh** (子明 しめい), là một chính trị gia và học giả Nhật Bản cuối thời Edo. ## Tiểu sử