Amarna (tiếng Ả Rập: العمارنة, al-ʿamārnah) là một thành phố cổ xưa ở Ai Cập được xây dựng bởi pharaon Akhenaten của Vương triều thứ 18 và bị bỏ hoang ngay sau cái chết của ông vào khoảng năm 1332 TCN. Tên cổ của thành phố này được viết như Akhetaten (hoặc Akhetaton) trong phiên âm tiếng Anh. Akhetaten có nghĩa là "Đường chân trời của Aten".
Amarna nằm ở bờ đông của sông Nin, thuộc tỉnh Minya hiện nay của Ai Cập, cách thủ đô Cairo 312 km về phía nam và cách Luxor 402 km về phía bắc. Thành phố Deir Mawas nằm ngay phía tây của Amarna, trong khi phía đông là nơi tập trung của những ngôi làng hiện đại.
nhỏ|228x228px|Bản đồ Amarna
Khu vực này cũng bị chiếm đóng trong thời kỳ La Mã và thời kỳ Cơ-đốc giáo xưa kia. Các cuộc khai quật ở phía nam thành phố đã tìm thấy một số cấu trúc có niên đại từ những thời kỳ này.
trái|nhỏ|212x212px|Một phù điêu bằng đá vôi miêu tả một công chúa
Tên gọi
Tên gọi "Amarna" xuất phát từ bộ tộc Beni Amran sống trong khu vực. Cần phân biệt với Tell Amarna ở Syria, một khu vực thuộc thời kỳ văn hóa halaf ("tell" trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "gò đất").
Nhà Ai Cập học người Anh John Gardner Wilkinson đã đến thăm Amarna hai lần vào những năm 1820 và xác định nó là Alabastron, theo những mô tả ghi chép của các học giả La Mã như Gaius Plinius Secundus và Claudius Ptolemaeus. Dù vậy, ông vẫn không chắc chắn về nhận định của mình và đề xuất rằng Kom el-Ahmar là một địa điểm thay thế.
Thành phố của Akhetaten
Thành phố này đã từng là kinh đô mới của vua Akhenaten, người chỉ độc tôn thần mặt trời Aten. Việc xây dựng bắt đầu vào khoảng năm thứ 5 triều đại của ông (1346 TCN) và có thể hoàn thành vào năm thứ 9 (1341 TCN). Để đẩy nhanh tốc độ xây dựng, hầu hết các công trình được xây dựng từ làm từ gạch bùn rẻ tiền và được quét vôi trắng, chỉ những đền đài, cung điện mới được xây bằng đá rắn.
Phần lớn thành phố đã bị bỏ hoang sau khi Akhenaten băng hà, con trai của ông, Tutankhamun, người sau đó đã từ bỏ Amarna để quay về Thebes. Một ngôi đền của Horemheb vẫn được xây dựng tại đây, chứng tỏ Amarna vẫn còn hoạt động sau đó một thời gian. Vào thời La Mã, nơi này mới bắt đầu sầm uất trở lại. Trên tấm bia này, Akhenaten đã tự nhận mình là con trai của Aten.
trái|nhỏ|Một phù điêu tại Amarna mô tả Akhenaten, Nefertiti và Meritaten
Vị trí
Nằm bên bờ đông của sông Nin, những công trình được xây dựng dọc theo một con đường chạy từ bắc đến nam, gọi là "Con đường hoàng gia", bây giờ được gọi là "Sikhet es-Sultan". Cung điện của hoàng gia nằm ở đầu phía bắc, gọi là "Thành phố Bắc", là trung tâm thờ cúng và cũng là nơi thiết triều của nhà vua. Nơi ở của hoàng gia được gọi là "Cung điện phía Bắc", bên ngoài cung điện này là nhà ở của các cư dân. Càng xa trung tâm cung điện, kích thước ngôi nhà càng nhỏ và trông nghèo nàn hơn.
Hầu hết các tòa nhà quan trọng và đều nằm ở trung tâm thành phố. Khu vực này có hai đền thờ: Đền thờ lớn và Đền thờ nhỏ của Aten, một dinh thự dành cho các nghi lễ hoàng gia. Phía sau dinh thự này là nơi trông coi giấy tờ của triều đình, nơi tìm thấy những lá thư Amarna.
Ở phía nam thành phố là nơi tập trung những khu ngoại ô, là nơi ở của các đại thần trong triều, bao gồm tể tướng Nakhtpaaten, tướng quân Ramose và đại tư tế của Aten tên Panehesy. Đây cũng là nơi đặt xưởng của thợ điêu khắc Thutmose, người đã tạo nên bức tượng bán thân nổi tiếng đến tận ngày nay của nữ hoàng Nefertiti. Bên cạnh đó, ông cũng tạc một số tượng của các thành viên hoàng gia khác như của vua cha Amenhotep III và sủng phi của Akhenaten - Kiya.
nhỏ|204x204px|Chân dung của Tutankhamun phong cách Amarna
Xa hơn về phía nam là Kom el-Nana, nơi có một bờ tường bao quanh, được cho là dấu tích của một đền thờ mặt trời và Maru-Aten, có thể là cung điện của thứ phi Kiya, về sau bị đổi thành tên của công chúa Meritaten vì bà bị thất sủng.
Cách xa thành phố là nghĩa trang hoàng gia của Akhenaten nằm ở một thung lũng phía đông thành phố, ẩn mình trong vách núi. Chỉ có một ngôi mộ được hoàn thành và thuộc sở hữu của một bà hậu phi vô danh của ông, và một ngôi mộ được gán cho nhà vua có lẽ là thuộc về công chúa Meketaten, con gái thứ hai của ông.
Khám phá và khai quật
trái|nhỏ|Tàn tích của Cung điện phía Bắc
Amarna được khám phá vào năm 1714 bởi Claude Sicard, một linh mục dòng Tên người Pháp khi đang du hành qua vùng thung lũng sông Nin. Napoléon sau đó đã cho thiết lập bản đồ chi tiết đầu tiên về Amarna vào khoảng thập niên 1820.
Năm 1824, John Gardiner Wilkinson tiếp tục khám phá và lập bản đồ những vùng còn lại. Tiếp sau đó, Robert Hay và G. Laver phát hiện thêm nhiều cổ mộ nằm ở phía nam và các phù điêu vào năm 1833.
Karl Richard Lepsius đã vẽ lại những tàn tích còn sót lại của thành phố vào giữa năm 1843 và 1845. Kết quả cuối cùng được công bố vào năm 1849 trong tác phẩm của ông. Giữa năm 1891 và 1892, Alessandro Barsanti và Flinders Petrie đã khai quật chủ yếu những di tích của cung điện hoàng gia, các đền đài và một số ngôi nhà.
Sau đó, họa sĩ N. de Garis Davies đã mô tả và vẽ lại những ngôi mộ và bia đá ranh giới Amarna từ năm 1903 đến năm 1908. Đầu thế kỷ 20, đoàn khảo cổ đến từ Đức, dẫn đầu bởi Ludwig Borchardt, đã khai quật rộng rãi khắp các vùng ngoại ô phía bắc và nam của thành phố. Bức tượng bán thân nổi tiếng của Nefertiti được phát hiện vào năm 1912 và được đem về Bảo tàng Neues, Berlin. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914 đã chấm dứt các cuộc khai quật của nhóm. Từ năm 2005 đến năm 2013, nhiều ngôi mộ được khai quật thêm, gần những ngôi mộ phía nam của giới quý tộc.
👁️
4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Amarna** (tiếng Ả Rập: العمارنة, _al-ʿamārnah_) là một thành phố cổ xưa ở Ai Cập được xây dựng bởi pharaon Akhenaten của Vương triều thứ 18 và bị bỏ hoang ngay sau cái chết của
**Dự án các ngôi mộ hoàng gia Amarna** (ARTP) là một dự án khảo cổ học, thám hiểm dành cho thời kỳ Amarna. Nó đã được thành lập từ năm 1998 đến xác định các
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
**Meritaten** (tiếng Ai Cập: _mrii.t-itn_), còn được viết là **Merytaten**, là một công chúa sống vào cuối thời kỳ Vương triều thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Tên của bà có ý nghĩa là
**Ankhesenpaaten** (khoảng 1347 TCN - 1323 TCN) là một công chúa và vương hậu thuộc thời kỳ Amarna, Vương triều thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Bà kết hôn với người em trai khác
**Tutankhamun** (); phát âm theo tiếng Ai Cập cổ là **Tutankhamen** là một pharaon Ai Cập thuộc Vương triều thứ 18, trị vì vào khoảng những năm 1332-1323 TCN (theo bảng niên đại quy ước),
phải|nhỏ| Một trong những "Thư Amarna" EA 19 đàm phán về một cuộc hôn nhân giữa [[Amenhotep III và con gái của Tushratta, Tadukhipa ]] **Tadukhipa**, hoặc **_Tadu-Hepa_** theo ngôn ngữ Hurrian, là con gái
:_Đừng nhầm lẫn với Neferneferuaten, một nữ vương sống vào cùng thời kỳ Amarna._ **Neferneferuaten Tasherit** (tiếng Ai Cập: _nfr-nfrw-jtn tꜣšrjt_) là một công chúa sống vào cuối thời kỳ Vương triều thứ 18 của
**Meketaten** (tiếng Ai Cập: _mꜥkt itn_) là một công chúa sống vào cuối thời kỳ Vương triều thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Tên của bà có ý nghĩa là "_Người được Aten bảo
**Mặt nạ của Tutankhamun** là một mặt nạ xác ướp gò bằng vàng của Pharaon Tutankhamun, thuộc Vương triều thứ 18 của Ai Cập cổ đại. Pharaon Tutankhamun (1332-1323 TCN). Nó đã được phát hiện
thumb **Abdi-Ashirta** (thế kỷ thứ 14 TCN) là một người cai trị của Amurru, ông đã có xung đột với vua Rib-Hadda của Byblos. Trong khi một số người cho rằng Amurru là một vương
**Huya** là một quý tộc Ai Cập sống vào khoảng năm 1350 TCN. Ông là "Người quản lý Hậu cung Hoàng Gia", "Người quản lý Quốc khố" và "Người quản lý Ngôi Nhà", tất cả
|right|thumb|[[Tượng bán thân Nefertiti do Thutmose điêu khắc]] **Thutmose**, còn được gọi là "Nhà điêu khắc và bậc thầy của tác phẩm được nhà vua ưa thích nhất, Nhà điêu khắc **Thutmose**" (cũng được viết
**Amenhotep III** (tên Hy Lạp hóa là **Amenophis III**; tên tiếng Ai Cập: **Amāna-Ḥātpa**; dịch nghĩa: _Amun đẹp lòng_), còn gọi là Amenhotep Vĩ Đại là vị pharaon thứ 9 thuộc Vương triều thứ 18
**Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại** hay **Vương triều thứ 18** (bắt đầu năm 1543 TCN - kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ
**Lam Ai Cập** hay **xanh Ai Cập** là tên gọi để chỉ màu có từ **bột màu lam Ai Cập** hay **calci đồng silicat** (CaCuSi4O10 hoặc CaOCuO(SiO2)4 (calci đồng tetrasilicat)), một bột màu được sử
thumb|Chân dung Flinders Petrie do [[Philip de László|Philip Alexius de Laszlo vẽ năm 1934]] thumb|Đồ gốm Ai Cập sơn đỉnh màu đen đặc biệt của thời kỳ tiền vương triều gắn với hệ thống xác
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
Kheperkheperure **Ay**, hay **Aya** hoặc **Aye** hoặc **Eye** là vị pharaon thứ 14 của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 18, vương triều đầu tiên của thời đại Tân vương quốc. Ay từng
**Nefer-neferuaten Nefer-titi** (; khoảng 1370 TCN – khoảng 1330 TCN) là Vương hậu Ai Cập và là vợ cả của Pharaoh Akhenaten, thường được biết qua danh hiệu **Amenhotep IV**. Nefertiti và chồng được biết
**Tey** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là Chính cung của pharaon Kheperkheprure Ay, vua áp chót của vương triều này.
thumb|Bán cầu Đông năm 1400 TCN thumb|Cốc uống rượu, [[Nhà Thương, thế kỷ 13 TCN, Phòng tranh Arthur M. Sackler.]] thumb|Phía bắc [[Đấu trường La Mã]] **Thế kỉ 14 TCN** bắt đầu từ ngày đầu
**Ramose** là một cái tên được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại, mang ý nghĩa là "_Được sinh ra bởi thần Ra_". Những biến thể của tên gọi này là
nhỏ|Frit để sản xuất [[bông khoáng|bông thủy tinh.]] **Frit** là một thành phần gốm đã được nung chảy, tôi và nghiền thành hạt. Frit tạo thành một phần quan trọng của các mẻ liệu được
Ngày **29 tháng 10** là ngày thứ 302 (303 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 63 ngày trong năm. ## Sự kiện *555 – Trước áp lực của Trần Bá Tiên, Tiêu Uyên Minh
phải|Trang trí trần trong sảnh chính của Medinet habu Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin (Nile) vùng đông bắc châu
**Thutmosis IV** (hay **Thutmose IV** hoặc **Tuthmosis IV**, có nghĩa là "thần Thoth sinh ra"), là vị pharaon thứ tám của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Tên prenomen hay tên hoàng gia của
**Ankhkheperure Neferneferuaten** là một người phụ nữ đã trị vì như một pharaon vào cuối thời Armana thuộc Vương triều thứ 18. Nhiều khả năng bà là công chúa Meritaten - con gái của pharaoh
**Ankhkheperure Smenkhkare Djeser Kheperu** (còn gọi **Smenkhkare**, hay **Smenkhare** hoặc **Smenkare**, có nghĩa "Sinh lực là linh hồn của thần Ra") là pharaon ngắn ngủi của Vương triều thứ 18, người được xem là người
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Jerusalem** (phiên âm tiếng Việt: _Giê-ru-sa-lem_, ; tiếng Do Thái: ירושׁלים _Yerushalayim_; tiếng Ả Rập: _al-Quds_, tiếng Hy Lạp: Ιεροσόλυμα _Ierosólyma_) là một thành phố cổ đại ở Trung Đông, nằm trên một cao nguyên
300x300px|thumb|Từ trên cùng bên trái, theo chiều kim đồng hồ: **[[Giải vô địch bóng đá thế giới 1990** được tổ chức tại Ý và Tây Đức giành chức vô địch; **Dự án bản đồ gen
Bản khắc đá Karabel trên [[núi Nif được coi là của _"Tarkasnawa, Vua xứ Mira"_, một phần của Vương quốc Arzawa.]] **Arzawa** là tên của một vùng hay vương quốc ở phía tây Anatolia, sau
**Quần thể đền Karnak**, thường gọi tắt là **đền Karnak**, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của
**_Noctuidae_** là một họ bướm đêm có hơn 35.000 loài được biết đến trong tổng số có thể lên đến 100.000 loài trong hơn 4.200 chi. Dưới đây liệt kê một số chi theo nhóm
*_Abablemma_ *_Abacena_ *_Abagrotis_ *_Ablepharon_ *_Ablephica_ *_Ableptina_ *_Ablita_ *_Abolla_ *_Abriesa_ *_Abromias_ *_Abrostola_ *_Abseudrapa_ *_Aburina_ *_Acacallis_ *_Acaenica_ *_Acanthermia_ *_Acanthocoles_ *_Acanthodelta_ *_Acanthodica_ *_Acantholeucania_ *_Acantholipes_ *_Acanthoplusia_ *_Acanthopolia_ *_Acanthoprora_ *_Acantuerta_ *_Acerra_ *_Achaea_ *_Achaeops_ *_Acharya_ *_Achatia_ *_Achatodes_ *_Acherdoa_ *_Achytonix_ *_Acidaliodes_ *_Acidon_
nhỏ|Một góc của Thung lũng các vị vua **Thung lũng các vị Vua** (; ), một số ít thường gọi là Thung lũng cổng vào các vị vua (tiếng Ả Rập: وادي ابواب الملوك Wādī
**Dịch hạch (plague)** là một loại bệnh do vi khuẩn _Yersinia pestis_ hình que thuộc họ Enterobacteriaceae gây ra. Từ nguyên của từ "plague" được cho là đến từ plāga Latin ("vết thương") và plangere
**Anubis** ( hay ; ) là tên Hy Lạp cho vị thần mình người đầu chó rừng có liên quan đến quá trình ướp xác và cuộc sống sau cái chết trong văn hóa Ai
**Howard Carter** (9 tháng 5 năm 1874 – 2 tháng 3 năm 1939) là một nhà khảo cổ học và nhà Ai Cập học người Anh, là người chủ chốt trong việc khám phá lăng
**Người Hittite** (Ḫa-at-tu-ša / 𒄩𒀜𒌅𒊭) có gốc là người Anatolia cổ đại đã thành lập một đế chế tập trung tại Hattusa ở Anatolia Bắc Trung Đông khoảng năm 1600 TCN. Đế chế này đạt
**Tripoli** ( / ALA-LC: _Ṭarābulus_; tiếng Ả Rập Liban: _Ṭrāblos_; / _Tripolis_) là thành phố lớn nhất miền bắc Liban và là thành phố lớn thứ hai nước này, cách thủ đô Beirut 85 km về
**Týros** (tiếng Ả Rập: , **'; tiếng Phoenicia:צור, **'; , _Tzor_; tiếng Hebrew Tiberia: , **'; tiếng Akkad: 𒋗𒊒 **_'; tiếng Hy Lạp: _**', _Týros_; ; ) - hoặc **Sour** hoặc **Tyre_' (tên trong
:_Đừng nhầm lẫn với Mutnedjmet, vương hậu của Pharaon Psusennes I thuộc Vương triều thứ 21._ **Mutnedjmet** (còn được viết là **Mutnedjemet**, **Mutnodjmet**, **Mutnodjemet**), là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Kiya** là một trong những phối ngẫu của Pharaon Akhenaten thời kỳ Vương triều thứ 18. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn. Trong những năm
nhỏ|270x270px|Phù điêu mô tả [[Tutankhamun đang đội Hemhem, người bên phải là Ankhesenamun]] **Hemhem** là vương miện được sử dụng bởi các vị pharaon Ai Cập cổ đại, và cũng là mũ đội đầu của
**Safita** ( __; Phoenician, _Sōpūte_) là một thành phố ở Tỉnh Tartous, tây bắc Syria, nằm ở phía đông nam của Tartous và phía tây bắc của Krak des Chevaliers. Nó nằm trên đỉnh của
nhỏ|phải|Họa phẩm của John Collier năm 1883 về các tỳ nữ của Pharaoh nhỏ|phải|Biểu tượng hoa văn của Ai Cập **Ai Cập cổ đại** dưới góc nhìn của thế giới phương Tây (_Ancient Egypt in
thumb|upright=1.3|Những hộp hồ sơ trên kệ của kho lưu trữ **Kho lưu trữ** là một tập hợp tích trữ các văn bản lịch sử hoặc để chỉ vị trí của nơi lưu trữ chúng. Kho