✨Mentuhotep II

Mentuhotep II

Nebhotepre Mentuhotep II (cai trị: 2046 TCN - 1995 TCN) là vị pharaon đã sáng lập ra Vương triều thứ 11 thuộc Ai Cập cổ đại, vương triều đầu tiên của thời Trung Vương quốc. Ông đã cai trị 51 năm và vào năm thứ 39 dưới vương triều của mình, ông đã thống nhất hoàn toàn Ai Cập, kết thúc Thời kì Chuyển tiếp thứ Nhất.

Gia đình

thumb|Silsileh rock carving depicting a giant king Mentuhotep II, on the right Intef III and the [[Kheti (treasurer)|treasurer Kheti and, on the left, queen Iah.]] Mentuhotep II là con trai của vua Intef III với vợ là Iah, có thể là em gái của ông ta. Dòng dõi này được chứng minh bằng tấm bia của Henenu (Cairo 36.346), một quan chức phục vụ dưới thời Intef II, Intef III và con trai của ông ta, trong đó tấm bia xác định Horus s-ankh- [ib-t3wy], là tên Horus đầu tiên của Mentuhotep II. Về phía Iah, bà đã mang danh hiệu MWt-nswt, "Mẹ của đức vua". Phụ mẫu của Mentuhotep II cũng gián tiếp được xác nhận bởi một phù điêu tại Shatt er-Rigal. Nhiều người vợ của Mentuhotep II đã được chôn cất cùng với ông hoặc gần đền thờ tang lễ của ông:

*Tem (tm), người có thể là chính cung của Mentuhotep II bởi vì bà mang tước hiệu HMT-nswt "vợ của đức vua", HMT-nswt mryt.f "vợ của đức vua, tình yêu của ngài" và wrt-Hts-nbwi. bà đa sinh cho vua Mentuhotep II hai người con, một trong số đó chắc chắn là vua Mentuhotep III bởi vì Tem cũng còn được gọi là MWt-nswt, "Mẹ của đức vua" và MWt-nswt-bitj," mẹ của hai vị vua ". Rõ ràng là bà đã qua đời sau chồng mình và được con trai mình an táng trong ngôi đền thờ Mentuhotep. Ngôi mộ của bà được phát hiện vào năm 1859 bởi ngài Duffering và được khai quật hoàn toàn vào năm 1968 bởi D. Arnold.

*Neferu II* ("Xinh đẹp") cũng được gọi là "vợ của đức vua" và HMT-nswt-mryt.f, "vợ của đức vua, tình yêu của ngài". Bà có thể là chị gái của Mentuhotep II bởi vì bà còn mang tước hiệu s3t-nswt-smswt-n-kht.f, "Con gái đầu của nhà vua", irjt-p3t, "công chúa cha truyền con nối" và hmwt-nbwt, "người tình của tất cả phụ nữ ". Bà được chôn cất trong ngôi mộ TT319 ở Deir el-Bahri. Kawit (k3wj.t) là một trong những thứ phi của Mentuhotep II. Bà có các danh hiệu như HMT-nswt mryt.f "Vợ của đức vua, người tình của ngài" và khkrt-nswt. Bà là một "Nữ tư tế của Hathor". Đã có giả thuyết cho rằng bà là người Nubia. Sadeh, Ashayet, Henhenet và Kemsit cả bốn người đều thứ phi của Mentuhotep II. Họ đều mang danh hiệu HMT-nswt mryt.f, "vợ của đức vua, người tình của ngài" và khkrt-nswt-w3tit. Họ là những nữ tư tế của thần Hathor và là người Nubia Mayet**, một bé gái năm tuổi được chôn cùng với 5 bà thứ phi trên của Mentuhotep II. Không rõ liệu đó có thể là một trong những người vợ của Mentuhotep hoặc một trong những người con của ông.

Cai trị

Mentuhotep II được coi như là vị vua đầu tiên thuộc thời kỳ Trung Vương quốc của Ai Cập. Cuộn giấy cói Turin ghi lại rằng triều đại của ông kéo dài trong 51 năm.

thumb|Bức tượng ngồi bằng đá sa thạch được sơn màu của Nebhepetre Mentuhotep II, [[bảo tàng Ai Cập, Cairo.]]

Đầu vương triều

Khi ông lên ngôi vua Thebes, Mentuhotep II đã được thừa hưởng một lãnh thổ rộng lớn vốn được những vị vua tiền chinh phục kéo dài từ thác nước thứ nhất ở phía Nam cho tới Abydos và Tjebu ở phía bắc. Mười bốn năm đầu tiên của Mentuhotep II dường như đã trôi qua một cách hòa bình ở khu vực Theban bởi vì dường như không có dấu vết nào còn sót lại về các cuộc xung đột chắc chắn mà niên đại xác định vào thời kỳ đó. Trong thực tế, với việc có rất hiếm bằng chứng về những năm đầu vương triều của Mentuhotep của thể cho thấy rằng ông đã lên ngôi khi còn trẻ, một giả thuyết phù hợp với thời gian trị vì lâu dài tới 51 năm của ông.

Thống nhất Ai Cập

Vào năm thứ 14 dưới vương triều của ông, một cuộc nổi loạn đã xảy ra ở phía bắc. Cuộc nổi loạn này là có thể có liên hệ với cuộc chiến tranh đang diễn ra giữa Mentuhotep II có căn cứ tại Thebes và vương triều thứ 10 đối thủ với căn cứ ở Herakleopolis vốn đe dọa xâm lược Thượng Ai Cập. Năm thứ 14 của vương triều Mentuhotep còn thực sự được gọi là Năm tội ác của Thinis. Điều này chắc chắn đề cập đến việc các vị vua Herakleopolis tiến hành cuộc chinh phục vùng đất Thinite, và họ dường như đã xúc phạm các nghĩa địa hoàng gia cổ đại thiêng liêng của Abydos trong quá trình này. Mentuhotep II sau đó đã phái quân đội của ông tiến về phía bắc. Ngôi mộ nổi tiếng của các chiến binh tại Deir el-Bahari được phát hiện vào những năm 1920, có chứa thi thể 60 binh sĩ tử trận trong trận chiến, tấm vải liệm của họ dấu triện của Mentuhotep II. Do nằm gần với những ngôi mộ hoàng gia Thebes, ngôi mộ của các chiến binh này được cho là của những anh hùng đã hy sinh trong các cuộc chiến giữa Mentuhotep II và kẻ thù của ông ở phía bắc.Merykara, vị vua của Hạ Ai Cập vầo thời gian có thể cũng đã tử trận trên chiến trường, điều đó tiếp tục làm suy yếu vương quốc của ông ta và tạo cơ hội cho Mentuhotep thống nhất Ai Cập.

Thời gian chính xác diễn ra quá trình thống nhất thì không được biết rõ, nhưng nó được giả định là đã xảy ra trong khoảng thời gian trước năm 39 của vương triều của ông Thật vậy, bằng chứng cho thấy rằng quá trình này diễn ra khá lâu, có thể do tình trạng mất an ninh chung của đất nước vào thời điểm đó: dân thường được chôn cất cùng với vũ khí, các tấm bia mộ của tầng lớp quan lại cho thấy họ cầm vũ khí thay cho những biểu tượng bình thường

Các chiến dịch quân sự bên ngoài Ai Cập

Mentuhotep II đã phát động các chiến dịch quân sự dưới sự chỉ huy bởi viên tể tướng của ông Khety vào những năm 29 và 31 về phía nam nhằm vào Nubia, vùng đất vốn đã giành được độc lập trong thời kỳ hỗn loạn đầu tiên. Điều này dẫn đến sự xuất hiện lần đầu tiên của thuật ngữ Kush dành cho Nubia trong các ghi chép của Ai Cập. Đặc biệt, Mentuhotep đã phái một đơn vị đồn trú tới pháo đài trên đảo Elephantine để quân đội có thể nhanh chóng được triển khai về phía Nam. thumb|Tước hiệu thứ 3 của Mentuhotep đến từ ngôi đền Montu của ông tại Tod. Mentuhotep cũng còn dựa vào một lực lượng các quan chức triều đình lưu động, nhằm kiểm soát hơn nữa những việc làm của các lãnh chúa. lần đầu tiên là vào năm trị vì thứ 14, đánh dấu những thành công ban đầu trong chiến dịch chống lại Herakleopolis Magna ở phía bắc của ông. Lần thứ hai là vào hoặc ngay trước năm trị vì thứ 39, đánh dấu thắng lợi sau cùng của chiến dịch này, và sự thống nhất toàn bộ Ai Cập của ông. Một cách chính xác hơn, lần thay đổi thứ hai này có thể diễn ra vào lần diễn ra vào dịp lễ hội sed mà được tổ chức vào năm trị vì thứ 39 của ông.

Nói chung, các tước hiệu của Mentuhotep II thể hiện một ước muốn quay trở lại với những truyền thống của thời kỳ Cổ Vương quốc. Đặc biệt, ông đã thông qua năm tước hiệu đầy đủ sau khi ông thống nhất Ai Cập, dường như là lần đầu tiên từ thời vương triều thứ 6. Một bằng chứng khác cho thấy rằng Mentuhotep II đã dành nhiều sự quan tâm dành cho các truyền thống của thời kỳ Cổ Vương quốc đó là tên Nomen thứ hai của ông, đôi khi được tìm thấy là

<-O10-nb-O28-n:t*O49-G39:Y5-V13:Htp->
_s3 Hw.t-Hr nb(.t) iwn.t mnTw-Htp_
"Người con trai của Hathor, công nương của Dendera, Mentuhotep"
Việc nhắc đến Hathor thay vì là Re là tương tự với tước hiệu của Pepi I. Cuối cùng, trong các danh sách vua sau này, Mentuhotep được nhắc tới cùng với một biến thể khác của tước hiệu thứ ba của ông
<-ra:nb-P8-><-Y5:n-U33-Z7-Htp:t-p-Z7-G7->
### Các công trình Mentuhotep II đã ra lệnh xây dựng nhiều đền thờ mặc dù vậy chỉ có một vài trong số đó còn tồn tại tới ngày nay. Được bảo quản tốt nhất là một nhà nguyện tang lễ được phát hiện vào năm 2014 tại Abydos. Hầu hết các tàn tích của những ngôi đền khác cũng nằm tại Thượng Ai Cập, chính xác hơn là nằm tại Abydos, Aswan, Tod, Armant, Gebelein, Elkab, Karnak và Denderah. Khi làm như vậy, Mentuhotep đã tiếp nối một truyền thống được khởi đầu bởi ông nội của mình Intef II: các hoạt động xây dựng của hoàng gia tại các ngôi đền ở các vùng đất thuộc Thượng Ai Cập đã bắt đầu dưới thời Intef II và kéo dài suốt thời kỳ Trung Vương quốc.

Ngôi đền tang lễ của Mentuhotep II

thumb| ngôi đền tang lễ I của Mentuhotep, 1) Bab el-Hosan cache, 2) Lower pillared halls, 3) Upper hall, 4) core building, maybe a pyramid and between 3) and 4) is the ambulatory, 5) Hypostyle Hall, 6) Sanctuary. Dự án xây dựng tham vọng nhất và sáng tạo nhất của Mentuhotep II còn tồn tại là ngôi đền tang lễ lớn của ông. Những đổi mới về kiến trúc của ngôi đền đánh dấu một bước đột phá so với quần thể kim tự tháp truyền thống của thời kỳ Cổ Vương quốc và báo hiệu Ngôi đền Triệu Năm của Thời kỳ Tân Vương quốc. Như vậy, ngôi đền của Mentuhotep II chắc chắn là một nguồn cảm hứng chính cho các ngôi đền của Hatshepsut và Thutmose III gần 500 sau đó .

Tuy nhiên, những thay đổi có ảnh hưởng sâu sắc nhất của ngôi đền của Mentuhotep II lại không phải là kiến trúc mà là về tôn giáo. Đầu tiên, nó là ngôi đền tang lễ đầu tiên mà tại đó nhà vua không chỉ là người tiếp nhận lễ vật mà còn đóng vai trò nghi lễ thay cho các vị thần (trong trường hợp này là Amun-Ra). Thứ hai, ngôi đền đồng nhất hóa nhà vua với thần Osiris, một vị thần địa phương của Thebes mà đã dần trở nên quan trọng từ vương triều thứ 11 trở đi. Quả thực, các trang trí và những bức tượng hoàng gia của ngôi đền nhấn mạnh đến khía cạnh là vị vua của người chết của thần Osiris, một ý thức hệ biểu hiện trong các bức tượng tang lễ của nhiều vị pharaon sau này.

Cuối cùng, hầu hết các trang trí của ngôi đền là tác phẩm của các nghệ sĩ ở địa phương của Thebes. Điều này được chứng minh bời phong cách nghệ thuật chủ đạo của ngôi đền mà miêu tả những người hầu với đôi môi và mắt to cùng với thân hình mảnh khảnh. Ngược lại, ngôi nhà nguyện tinh tế dành cho những người vợ của Mentuhotep II chắc chắn là do những người thợ thủ công của Memphis tạo nên, họ vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các tiêu chuẩn và quy ước của thời kỳ Cổ Vương quốc. Hiện tượng phân mảnh về phong cách nghệ thuật này đã được quan sát xuyên suốt thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất và là một hệ quả trực tiếp từ sự chia cắt về chính trị của đất nước.

Phát hiện và khai quật

Vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 19, tàn tích của ngôi đền của Mentuhotep II đã hoàn toàn bị bao phủ bởi đá vụn. Do đó, họ đã không để ý đến nó cho tới tận nửa sau của thế kỷ, bất chấp các cuộc khai quật trên quy mô lớn được tiến hành ở ngôi đền Djeser-Djeseru gần đó của Hatshepsut.

Do đó mãi đến năm 1859, Huân tước Dufferin cùng các trợ lý của ông ta, tiến sĩ Lorange và Cyril C. Graham, đã bắt đầu khai quật góc tây nam căn phòng lớn nhiều cột của ngôi đền của Mentuhotep. Sau khi dọn sạch đống mảnh vụn khổng lồ, họ đã sớm phát hiện ra ngôi mộ bị cướp bóc của hoàng hậu Tem, một trong những người vợ của Mentuhotep. Nhận thức được tiềm năng của địa điểm này, họ sau đó đã tiến dần một cách từ từ đến khu vực điện thờ, tại đây họ đã tìm thấy bệ thờ bằng đá granite của Mentuhotep cùng với một hình vẽ của Amun-Re và thêm nhiều phát hiện khác chẳng hạn như là ngôi mộ của Neferu TT319. Sau cùng, vào năm 1898, Howard Carter đã phát hiện ra hố chôn giấu Bab el-Hosan trong sân trước, tại đây ông ta đã phát hiện ra bức tượng ngồi màu đen nổi tiếng của nhà vua.

thumb|Mặt cắt ngang ngôi đền tang lễ của Mentuhotep II được vẽ bởi E. Naville Các hoạt động khai quật quan trọng tiếp theo diễn ra từ năm 1903 tới năm 1907 dưới sự chỉ đạo của Henri Édouard Naville, người làm việc tại đây thay mặt Quỹ Thám Hiểm Ai Cập. Ông là người đầu tiên thực hiện việc khảo sát có hệ thống ngôi đền. Khoảng 10 năm sau, trong khoảng thời gian từ năm 1920 tới 1931, Herbert E. Winlock đã tiếp tục khai quật ngôi đền cho bảo tàng Mỹ Thuật Metropolitan. Tuy nhiên, thành quả của ông chỉ được xuất bản dưới dạng các báo cáo sơ bộ theo kiểu tóm tắt. Cuối cùng, từ năm 1967 tới 1971, Dieter Arnold đã tiến hành nghiên cứu địa điểm này thay mặt cho Viện khảo cổ học Đức. Ông ta đã xuất bản thành quả của mình trong 3 tập. thumb|Bức tượng sơn màu bằng đá sa thạch của Mentuhotep II đội vương miện [[Deshret, bức tượng này được H. Winlock phát hiện.]]

Lễ vật đặt móng

Dưới 4 góc nền đất của ngôi đền, H. Winlock đã phát hiện ra 4 hố trong các cuộc khai quật vào năm 1921–1922 của ông ta. Bốn hố này được đào trước khi xây dựng ngôi đền nhằm mục đích dành cho nghi thức đặt móng. Thật vậy, khi H. Winlock phát hiện ra chúng, chúng vẫn còn chứa nhiều lễ vật: một hộp sọ trâu bò, những chiếc bình và bát chứa đầy trái cây, lúa mạch và bánh mì và một viên gạch bùn có tên của Mentuhotep II.

Các cuộc khai quật khác những hố này được tiến hành vào năm 1970 bởi Dieter Arnold đã khám phá ra thêm nhiều lễ vật khác như là bánh mì và sườn bò, một số đồ vật bằng đồng, một quyền trượng bằng sứ và những khăn trải bằng vải. Những khăn trải này được đánh dấu bằng mực đỏ ở góc, bảy cái có tên của Mentuhotep II và ba cái có tên của Intef II.

Kiến trúc

Con đường đắp cao và sân trong

Tương tự như quần thể tang lễ thời Cổ Vương quốc, quần thể tang lễ của Mentuhotep II bao gồm hai ngôi đền: ngôi đền chính Deir el-Bahri và một ngôi đền thung lũng nằm trên khu vực canh tác gần sông Nile. Ngôi đền thung lũng nối với ngôi đền chính bởi một con đường đắp cao không có mái dài 1.2 km và rộng 46 m. Con đường đắp cao dẫn tới một sân trong lớn ở phía trước ngôi đền Deir el-Bahri.

Sân trong này được trang trí bằng một luống hoa dài hình chữ nhật, với 55 cây sung dâu trồng trong các hố nhỏ và sáu cây liễu cùng hai cây sung dâu trồng trong các hố sâu chứa đầy đất. Đây là một trong số ít những khu vườn đền thờ của Ai Cập cổ đại được ghi chép về mặt khảo cổ học đủ để tái dựng lại diện mạo của nó. Để duy trì một ngôi đền như vậy cách sông Nile hơn 1 km qua một sa mạc khô cằn đòi hỏi cần nhiều người làm vườn làm việc không ngừng nghỉ và một hệ thống tưới tiêu phức tạp.

thumb|Các bức tượng ngồi của Mentuhotep II cạnh con đường đắp cao Bên trái và phải của con đường rước lễ là ít nhất 22 bức tượng ngồi của Mentuhotep II, ở phía Nam là những bức tượng đội the vương miện trắng của Thượng Ai Cập và ở phía bắc là đội vương miện đỏ của Hạ Ai Cập. Chúng có thể đã được bổ sung thêm cho ngôi đền để kỷ niệm lễ hội Sed của Mentuhotep II vào năm trị vì thứ 39 của ông. Một số bức tượng không đầu bằng đá sa thạch vẫn còn ở địa điểm này ngày nay. Một bức tượng khác được phát hiện trong cuộc khai quật của Herbert Winlock vào năm 1921 và ngày nay được trưng bày tại bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan.

Mặt trước của ngôi đền

Phía Tây của con đường đắp cao là ngôi đền chính, nó bao gồm hai phần. Phần mặt trước của ngôi đền là được dành riêng cho Monthu-Ra, một sự hợp nhất của thần mặt trời Ra với vị thần chiến tranh của Thebes Monthu, được thờ cúng đặc biệt là dưới thời vương triều thứ 11. Một đoạn đường dốc nằm thẳng hàng với trục chính của ngôi đền dẫn lên tầng thượng phía trên. Đoạn đường dốc này mà có thể nhìn thấy được vào ngày nay đã được Édouard Naville xây dựng phía trên tàn tích của đoạn đường dốc ban đầu vào năm 1905, tàn tích cũ chỉ có thể nhìn thấy ở hai chỗ như là hai lớp thấp nhất của lớp vỏ đá vôi bao phủ mặt bên. Ở phía đông phần mặt trước của ngôi đền, ở cả hai phia của đoạn đường dốc lên cao, bao gồm hai hành lang với một hàng cột kép hình chữ nhật, mà khiến cho ngôi đền trông giống một ngôi mộ saff, kiểu chôn cất truyền thống của các vị tiên vương thuộc vương triều thứ 11 của Mentuhotep II.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nebhotepre Mentuhotep II** (cai trị: 2046 TCN - 1995 TCN) là vị pharaon đã sáng lập ra Vương triều thứ 11 thuộc Ai Cập cổ đại, vương triều đầu tiên của thời Trung Vương quốc.
**Mentuhotep I** (cũng còn là **Mentuhotep-aa**, tức là "Vĩ Đại" ) có thể là một lãnh chúa Thebes và một vị vua độc lập ở vùng Thượng Ai Cập trong suốt thời kỳ Chuyển tiếp
Sankhkare **Mentuhotep III** của Vương triều thứ 11 và là pharaon của Ai Cập thời Trung Vương quốc. Ông cai trị trong khoảng 12 năm theo Danh sách Vua Turin. ## Cai trị Mentuhotep III
**Mentuhotep**, hay **Montuhotep**, ý nghĩa tên gọi: "_Làm hài lòng thần Montu_", là một cái tên được đặt cho cả nam và nữ quý tộc trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này có
**Sewadjare Mentuhotep** (còn được biết đến là **Mentuhotep V** hoặc Mentuhotep VI tùy thuộc vào học giả) là một vị pharaoh Ai Cập được chứng thực nghèo nàn của vương triều thứ 13, ông đã
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu I và Neferu III._ **Neferu II** ("_Sắc đẹp_") là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Wahankh Intef II** (cũng là **Inyotef II** và **Antef II**) là vị vua thứ 3 thuộc Vương triều thứ Mười Một của Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. Ông đã trị vì
**Mershepsesre Ini** (còn được biết đến như là **Ini II**) là một pharaon thuộc giai đoạn cuối của vương triều thứ 13, ông có thể là vị vua thứ 46 của vương triều này.
Ini
**Intef III** là vị pharaon thứ ba thuộc Vương triều thứ 11, ông cai trị trong giai đoạn cuối Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất và vào thế kỷ 21 TCN, đây là thời điểm
**Deir el-Bahari** hoặc **Dayr al-Bahri** ( _al-Dayr al-Baḥrī_ "Tu viện phía Bắc") là một quần thể các đền thờ phục vụ cho tang lễ và tưởng niệm, và các lăng mộ nằm trên bờ tây
**Iah** (cũng được viết là **Yah**, **Jah** hoặc **Aah**) là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
nhỏ|210x210px|Mảnh phù điêu của Kemsit tại đền thờ của [[Mentuhotep II]] **Kemsit** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là một thứ
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
thế=|nhỏ|262x262px|Kawit, người ngồi trên ngai. Một cảnh phù điêu trên quách của bà **Kawit** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Sehertawy Intef I** là một lãnh chúa địa phương ở Thebes trong giai đoạn đầu Thời kỳ chuyển tiếp thứ Nhất và là vị vua đầu tiên của vương triều thứ 11 sử dụng một
Đây là danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước trong thiên niên kỷ 4 và 3 trước Công nguyên (4000–2001 trước Công nguyên). ## Châu Phi: Đông Bắc ### Hạ Ai Cập ### Thượng
**Trung Vương quốc Ai Cập** là một giai đoạn trong lịch sử của Ai Cập cổ đại, tồn tại trong thời gian giữa khoảng năm 2050 trước Công nguyên, và 1700 trước Công nguyên, trải
nhỏ|320x320px|Cỗ quan tài gỗ của Mayet **Mayet** (còn đọc là **Miiut** hoặc **Miit**, nghĩa là "_con mèo_"), là tên của đứa bé gái được chôn trong khu phức hợp đền thờ của pharaon Mentuhotep II
nhỏ|220x220px|Bệ thờ của trong mộ của Sadeh **Sadeh** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là một thứ phi của pharaon Mentuhotep
nhỏ|248x248px|Cỗ quách đá của thứ phi Henhenet. **Henhenet** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là một thứ phi của pharaon Mentuhotep
nhỏ|206x206px|Phù điêu trên quách đá của Ashayet. **Ashayet** hay **Ashait** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là một người vợ thứ
nhỏ|240x240px|Vương miện hedjet **Hedjet**, hay **vương miện Trắng**, là vương miện của các pharaon cai trị Thượng Ai Cập. Sau khi Ai Cập thống nhất, Hedjet cùng với vương miện Đỏ Deshret hợp lại thành
**Neferu**, có ý nghĩa là "_Sắc đẹp_", là tên gọi của một vài người phụ nữ quý tộc sống vào thời Ai Cập cổ đại. Tên gọi này có thể chỉ đến những người sau:
**Satis** (tiếng Ai Cập: _Sṯt _ hoặc _Sṯjt_), còn gọi là **Satet** hay **Satjit**, là nữ thần hiện thân của lũ lụt và sông suối vùng Thượng Ai Cập trong tôn giáo Ai Cập cổ
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu II và Neferu III._ **Neferu I** là vương hậu đầu tiên của Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là
**Merikare** (cũng là **Merykare** và **Merykara**) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 10, ông đã sống vào giai đoạn gần cuối thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. Tên
**Segerseni** là một thủ lĩnh người Ai Cập cổ đại hoặc Nubia của Nubia, có thể đã trị vì cùng thời với thời kỳ cuối của vương triều thứ 11 và thời kỳ đầu của
**Abydos** (Tiếng Ả Rập: أبيدوس) là một thành phố cổ của Ai Cập cổ đại, và cũng là nome (tương đương một quận) thứ 8 của Thượng Ai Cập, nằm cách bờ tây sông Nin
**Sekhemre Khutawy Sobekhotep** (xuất hiện trong hầu hết các nguồn như là **Amenemhat Sobekhotep**; ngày nay được tin là **Sobekhotep I**; được biết đến là **Sobekhotep II** trong các nghiên cứu cũ) là một vị
**Vương triều thứ Mười Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 15**) là một triều đại các vua cai trị Ai Cập, kéo dài từ năm 1650 đến năm 1550 trước Công nguyên,
thumb|right|Bản đồ của Khu lăng mộ Thebes **Khu lăng mộ Thebes** là một khu lăng mộ và nghĩa địa trên bờ tây của sông Nile, đối diện với Thebes (Luxor) ở Thượng Ai Cập. Nó
phải|nhỏ|300x300px| Đền thờ của Hatshepsut **Đền tang lễ** (hay những **Đền chôn cất**, tiếng Anh: **_Mortuary Temple_** hay **_Funeral Temple**)_ là những đền thờ được dựng liền kề, gần kề hoặc xung quanh khu vực
**Amenhotep I**, hay **Amenophis I**, là vị pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 18 thuộc Ai Cập cổ đại. Ông là con trai vua Ahmose I và khi vua cha qua đời,Amenhotep I nối
**Thời kì Chuyển tiếp thứ Nhất của Ai Cập** hay **Thời kì Trung gian thứ Nhất** là một khoảng thời gian trong lịch sử Ai Cập, thường được mô tả như một "thời kì đen
**Vương quốc Kush** hoặc **Kush** () là một vương quốc cổ đại ở châu Phi nằm trên khu vực hợp lưu của sông Nile Xanh, Nile Trắng và sông Atbara, ngày nay là cộng hòa
**Khaneferre Sobekhotep IV** là một trong số những vị vua Ai Cập hùng mạnh thuộc vương triều thứ 13 (khoảng từ 1803 TCN tới khoảng năm 1649 TCN), ông đã trị vì ít nhất tám
nhỏ|259x259px|Các tượng shabti tại [[Bảo tàng Anh]] **Ushabti** (hay **shabti** hoặc **shawabti**) là những bức tượng nhỏ được chôn theo người chết trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Những bức tượng ushabti này đóng
nhỏ|215x215px|Vương miện Deshret **Deshret**, hay **vương miện Đỏ**, là vương miện của các pharaon cai trị Hạ Ai Cập. Sau khi Ai Cập thống nhất, Deshret cùng với vương miện Trắng Hedjet hợp lại thành
nhỏ|364x364px|Sơ đồ lăng mộ TT2 **TT2** là một lăng mộ nằm ở Deir el-Medina, thuộc khu vực bờ tây của sông Nile. Đây là nơi chôn cất của Khabekhnet, một nghệ nhân sống vào thời
**Sewahenre Senebmiu** (còn là **Sonbmiu**) là một vị pharaoh Ai Cập được chứng thực nghèo nàn thuộc vương triều thứ 13 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Theo nhà Ai Cập học Jürgen von
**Amenemhat I**, hay **Amenemhet I**, là vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ 12 của Ai Cập cổ đại vào thời Trung Vương quốc. Amenemhat I là Tể tướng dưới triều vua Mentuhotep IV
; Đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước trong thế kỷ 20 trước Công nguyên** (năm 2000–1901 trước Công nguyên). ## Châu Phi: Đông Bắc **Kush** * Vương quốc Kush ** Kaa,
**Senusret I**, hay **Sesostris I**, là vị pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 12 của Ai Cập. Ông trị vì từ năm 1971 TCN đến năm 1962 TCN, và là một trong những pharaon
**Sobekhotep** hay **Sebekhotep**, ý nghĩa tên gọi: "_Làm hài lòng thần Sobek_", là một cái tên khá phổ biến, được đặt bởi các pharaon và giới quý tộc của Ai Cập cổ đại. Tên này
**Seankhibtawy Seankhibra** là tên của một vị vua Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 11 hoặc nhiều khả năng hơn là vương triều thứ 12 hoặc vương triều thứ Mười Ba của Ai
**Djedankhre Montemsaf** là một vị vua người Thebes của vương triều thứ 16 nằm ở Thượng Ai Cập trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai vào khoảng năm 1590 TCN. Như vậy ông sẽ cai
**Montu** hay **Monthu**, **Ment**, **Menthu**, **Mont** hoặc **Montju**, là vị thần chiến tranh đầu chim ưng trong tôn giáo của Ai Cập cổ đại. Tên của Montu viết theo chữ tượng hình Ai Cập (xem