✨Danh sách pharaon

Danh sách pharaon

Danh sách các pharaon của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh La Mã dưới thời Augustus vào năm 30 TCN.

Niên đại trị vì của các Pharaon gần đúng. Danh sách các Pharaon được đưa theo bảng niên đại của Ai Cập cổ đại.

Các tài liệu cổ chính về các Pharaon

Các văn bản tài liệu gốc cổ về các Pharaon hiện vẫn chưa đầy đủ:

  • Tấm bia đá Palermo
  • Danh sách vua Turin
  • Manetho's Aegyptiaca (lịch sử Ai Cập)
  • Danh sách vua Abydos
  • Danh sách vua Karnak
  • Bia đá Nam Saqqara (phát hiện năm 1923, gồm Vương triều thứ Sáu)
  • Danh sách Saqqara (phát hiện năm 1861, gồm Vương triều thứ 1-12)

Archibald Sayce đã đưa dữ liệu để so sánh khảo nghiệm trong cuốn sách Các Đế chế cổ đại của phương Đông (1884), thêm vào đó các danh sách xuất hiện trong những tác phẩm của Herodotus, Diodorus, Eratosthenes và của các "nhà văn Ả Rập". Tuy nhiên danh sách không xuất hiện trong cuốn sách của Sayce mà được tìm thấy trong cuốn sách Sothis do George Syncellus dành tặng cho Manetho.

Thời đại huyền thoại

Trong các văn bia Palermo, Turin và danh sách vua của Manetho, có những phiên bản tên khác nhau của 8 vị thần này.

Các vị bán thần cai trị:

Thời kỳ cổ xưa

Thời kỳ cổ xưa bao gồm thời kỳ Tiền Vương triều Ai Cập, khi Hạ Ai Cập và Thượng Ai Cập được cai trị như 2 quốc gia riêng biệt.

Tiền Vương triều: Hạ Ai Cập

Hạ Ai Cập được tính từ phía bắc sông Nile tới đồng bằng sông Nile. Danh sách sau không đầy đủ:

Tiền Vương triều: Thượng Ai Cập

Vương triều 00

Vương triều 0

Thượng Ai Cập gồm khu vực thung lũng sông Nile, phía nam đồng bằng sông Nile. Danh sách sau không đầy đủ và chắc chắn:

Vương triều thứ Nhất

Vương triều thứ Nhất bắt đầu từ khoảng năm 3150-2890 trước Công nguyên. (Không có thời gian chính xác để xác định niên đại cho giai đoạn Cổ và Trung vương quốc, và có sự khác biệt lớn trong việc ước lượng Vương triều giữa các nhà Ai Cập học khác nhau)

Trong khoảng thời gian giữa Vương triều thứ Nhất và Vương triều thứ hai, có thể có hai pharaon từng trị vì:

Vương triều thứ Hai

Vương triều thứ Hai bắt đầu từ khoảng năm 2890-2686 TCN.

Cổ vương quốc

Cổ Vương quốc Ai Cập tồn tại trong thiên niên kỷ thứ Ba trước công nguyên khi Ai Cập đạt đến giai đoạn cực thịnh đầu tiên của nền văn minh cùng với những thành tựu vượt trội (đây là thời điểm đánh dấu giai đoạn đỉnh cao của nền văn minh sông Nile), khoảng thời gian từ Vương triều thứ Ba đến Vương triều thứ Sáu (từ năm 2686-2181 trước Công nguyên). Nhiều nhà Ai Cập học cho rằng cũng có thể bao gồm Vương triều thứ Bảy và 8 vì đây là giai đoạn tập trung quyền lực tại Memphis. Tiếp nối thời kỳ Cổ vương quốc là giai đoạn khủng hoảng chia rẽ và suy giảm văn hóa, các nhà Ai Cập học gọi đấy là thời kỳ chuyển tiếp đầu tiên hoặc thời kỳ đau ốm đầu tiên.

Kinh đô của thời kỳ Cổ Vương quốc đặt tại Memphis, nơi Djoser thiết lập nên triều đình của ông. Thời kỳ Cổ Vương quốc được biết đến nhiều nhất thông qua việc xây dựng các kim tự tháp để chôn cất các pharaon. Thời đại này thường được gọi "thời đại các kim tự tháp".

Vương triều thứ Ba

Vương triều thứ Ba bắt đầu từ năm 2686 tới 2613 TCN.

Vương triều thứ Tư

Vương triều thứ Tư bắt đầu từ 2613 tới 2498 TCN bao gồm các Pharaon đã xây dựng Khu lăng mộ Giza như Khufu (Cheops), Khafra (Chephren), và Menkaura (Mycerinus).

Vương triều thứ Năm

Vương triều thứ Năm từ năm 2498 tới 2345 TCN.

Vương triều thứ Sáu

Vương triều thứ Sáu từ năm 2345 tới 2181 TCN.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất

Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2181-2060 TCN) là khoảng thời gian cuối Cổ vương quốc tới đầu thời kỳ Trung vương quốc.

Cổ vương quốc nhanh chóng sụp đổ sau khi Pepi II qua đời. Ông trị vì 94 năm, lâu hơn bất kỳ quốc vương trong lịch sử, và qua đời ở tuổi 100. Những năm cuối Vương triều của ông đã được đánh dấu yếu kém do tuổi tác cao của ông.

Sự thống nhất của hai vương quốc không còn và các lãnh chúa đã phải đối phó với nạn đói.

Khoảng năm 2160 TCN, một triêu đại các vị pharaoh mới đã cố gắng thống nhất Hạ Ai Cập từ kinh đô Herakleopolis Magna của họ. Trong khi đó, một Vương triều khác tại Thebes đã tái thống nhất Thượng Ai Cập và một cuộc đụng độ giữa hai vương triều là điều không thể tránh khỏi.

Khoảng năm 2055 TCN, Mentuhotep II, con trai của pharaoh Intef III đánh bại các vị pharaoh Herakleopolis và thống nhất hai lại vương quốc, mở đầu thời kỳ Trung vương quốc.

Vương triều thứ Bảy và thứ Tám

Vương triều thứ Bảy và 8 bắt đầu từ khoảng năm 2187 tới khoảng năm 2160 TCN. Bao gồm các nhà vị vua cai trị ở Memphis. Bảng này dựa theo danh sách vua Abydos có niên đại từ Vương triều Seti I.

Vương triều thứ Chín

Vương triều thứ Chín cai trị từ năm 2160-2130 TCN. Theo danh sách vua Turin, Vương triều 9 và 10 có tất cả 18 vị vua. Một số hiện nay chưa tìm được tên.

Vương triều thứ Mười

Vương triều thứ Mười là nhóm các lãnh chúa địa phương cai trị Hạ Ai Cập từ 2130-2040 TCN

Vương triều thứ Mười một

Vương triều thứ Mười một là các lãnh chúa địa phương cai trị khu vực Thượng Ai Cập từ 2134 tới 1991 TCN. Vương triều thứ Mười một có nguồn gốc từ các lãnh chúa Thebes phụng sự các vị vua Vương triều 8, 9 hoặc 10.

Những vị vua kế vị Intef Già bắt đầu từ Mentuhotep I đã trở thành những vị vua độc lập ở phía nam và cuối cùng thống nhất Ai Cập vào Vương triều Mentuhotep II.

Trung vương quốc

Trung vương quốc (2060-1802 TCN) là giai đoạn giữa thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất và thời kỳ chuyển tiếp thứ hai. Ngoài Vương triều thứ Mười hai, một số học giả cho rằng có thể gồm cả Vương triều thứ Mười một, 13 và 14. Giai đoạn Trung vương quốc đã ghi nhận sự mở rộng giao thương ra bên ngoài vương quốc trong thời gian này. Việc mở rộng giao thương đã dẫn tới sự sụp đổ của trung vương quốc, cũng như dẫn tới cuộc xâm lược của người Hyksos.

Vương triều thứ Mười một tiếp tục

Thời kỳ sau của Vương triều thứ Mười một được coi là một phần của trung vương quốc.

Các vị vua bí ẩn, xuất hiện tại Hạ Nubia

Vương triều thứ Mười hai

Vương triều thứ Mười hai bắt đầu từ năm 1991 tới 1802 TCN.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai

nhỏ|phải|Các tung tâm chính trị thời kỳ chuyển tiếp lần thứ Hai (~ 1650 TCN - ~1550 TCN) Thời kỳ chuyển tiếp thứ hai (1802-1550 trước Công nguyên) là giai đoạn khủng hoảng kéo dài từ cuối thời kỳ trung vương quốc và đến đầu thời kỳ tân vương quốc. Thời kỳ này thường được biết đến với Vương triều thứ Mười lăm của người Hyksos.

Vương triều thứ Mười ba yếu hơn hẳn Vương triều thứ Mười hai, và nó không thể kiểm soát được toàn bộ Ai Cập. Thời điểm bắt đầu Vương triều này là vào khoảng năm 1805 TCN hoặc trong giai đoạn khoảng năm 1710 TCN, gia tộc lãnh chúa địa phương tại Xois nằm trong khu vực đồng bằng phía đông, đã li khai khỏi chính quyền trung ương và lập nên Vương triều thứ Mười bốn của người Canaan.

Người Hyksos bắt đầu xuất hiệu dưới Vương triều của Sobekhotep IV, vào khoảng năm 1720 TCN và kiểm soát thị trấn Avaris (ngày nay là Tell el-Dab'a/Khata'na), họ còn chinh phục vương triều thứ Mười bốn. Sau đó vào khoảng năm 1650 TCN người Hyksos, có thể dưới sự lãnh đạo của Salitis đã chinh phạt Memphis qua đó chấm dứt Vương triều thứ Mười ba. Khoảng trống quyền lực được tạo ra ở Thượng Ai Cập sau khi Vương triều thứ Mười ba sụp đổ đã dẫn tới sự ra đời vương triều thứ Mười sáu độc lập ở Thebes, nhưng cũng được không bao lâu sau thì lại bị người Hyksos tấn công và tiêu diệt.

Sau khi người Hyksos rút khỏi Thượng Ai Cập, gia tộc lãnh chúa tại Thebes đã tự thiết lập vương triều của họ, Vương triều thứ Mười bảy ra đời. Vương triều này tiếp tục cuộc chiến tranh chống lại người Hyksos dưới Vương triều Seqenenre Tao, Kamose và kết thúc dưới Vương triều Ahmose, vị pharaon đầu tiên của thời kỳ tân vương quốc.

Vương triều thứ Mười ba

Vương triều thứ Mười ba (theo Danh sách vua Turin) cai trị từ năm 1802- năm 1649 TCN và kéo dài 153 hoặc 154 năm theo Manetho. Bảng này nên được đối chiếu với các vị vua đã biết thuộc Vương triều thứ Mười ba.

Vị trí các vị vua sau đây lại không chắc chắn:

Vương triều thứ Mười bốn

Vương triều thứ Mười bốn là Vương triều độc lập ở phía đông khu vực đồng bằng châu thổ với căn cứ tại Avaris. Vương triều này kéo dài từ năm 1805 TCN hoặc 1710 TCN đến khoảng năm 1650 TCN. Nhiều vị vua Vương triều thứ Mười bốn có tên Semite và được cho là có nguồn gốc từ Canaan.

Các vị vua không chắc chắn:

Vương triều thứ Mười lăm

Vương triều thứ Mười lăm được những người Hyksos đến từ khu vực Lưỡi liềm phì nhiêu dựng nên, họ đã từng cai trị toàn bộ khu vực thung lũng sông Nile trong một thời gian ngắn, Vương triều của họ kéo dài từ năm 1674-1535 trước Công nguyên.

Vương triều Abydos

Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai có thể bao gồm cả Vương triều Abydos tồn tại từ năm 1650 TCN cho đến năm 1600 TCN. Vương triều này gồm 4 vị vua nhưng chưa xác định được niên đại của họ.

Vương triều thứ Mười sáu

Vương triều thứ Mười sáu do một Vương triều bản địa ở Thebes lập lên sau sự sụp đổ của Vương triều thứ Mười ba ở Memphis vào khoảng năm 1650 TCN và cuối cùng bị người Hyksos của Vương triều thứ Mười lăm chinh phạt vào năm 1580 TCN. Vương triều thứ Mười sáu chỉ kiểm soát vùng thượng Ai Cập.

Vương triều thứ Mười sáu có thể bao gồm Sneferankhre Pepi III và Nebmaatre. Niên biểu của họ chưa xác định được.

Vương triều thứ Mười bảy

Vương triều thứ Mười bảy cai trị Thượng Ai Cập trong giai đoạn từ năm 1650-1550 TCN

Tân Vương quốc

Lãnh thổ Ai Cập mở rộng tối đa trong thế kỷ XV TCN. Thời kỳ Tân Vương quốc (1550-1077 TCN) là giai đoạn bao gồm các Vương triều 18, 19, 20 từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XI TCN, giữa thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai và 3.

Bằng các hoạt động quân sự, các vị vua của Tân vương quốc đã mở rộng lãnh thổ Ai Cập tới đỉnh cao của nó, bao gồm Nubia ở phía Nam và những vùng lãnh thổ rộng lớn ở Cận đông. Quân đội Ai Cập đã giao tranh với quân đội Hittite để tranh giành quyền kiểm soát vùng đất Syria ngày nay.

Hai vị pharaon nổi tiếng của thời kỳ này đó là Akhenaten, còn được biết tới với tên gọi khác là Amenhotep IV, thờ độc thần Aten. Và Ramesses II người đã cố gắng tái kiểm soát lại vùng đất Israel/Palestine, Lebanon và Syria ngày nay. Công cuộc tái chinh phục của ông đã dẫn tới trận chiến Qadesh và đích thân ông đã chỉ huy quân Ai Cập giao chiến với quân Hittite do vua Muwatalli II lãnh đạo.

Vương triều thứ Mười tám

Vương triều thứ Mười chín

Vương triều thứ Mười chín cai trị trong khoảng 1292-1186 TCN với vị vua nổi tiếng là Rameses II.

Vương triều thứ Hai mươi

Vương triều thứ Hai mươi cai trị trong khoảng 1190-1077 TCN

Thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba

nhỏ|phải|Lãnh thổ Ai Cập dưới thời kỳ chuyển tiếp lần thứ Ba Thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba (1077-732 trước Công nguyên) đánh dấu sự kết thúc của Tân vương quốc sau khi đế chế Ai Cập sụp đổ. Một số Vương triều của người Lybia đã cai trị trong thời gian này, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ Lybia.

Vương triều thứ Hai mươi mốt

Vương triều thứ Hai mươi mốt đóng đô tại Tanis. Về mặt lý thuyết Vương triều thứ Hai mươi mốt cai trị toàn bộ Ai Cập nhưng thực tế họ chỉ kiểm soát vùng Hạ Ai Cập. Vương triều này kéo dài từ năm 1069-943 TCN.

Theban Đại tư tế của Amun

Mặc dù không phải là các pharaon, các Đại tư tế của Amun tại Thebes lại là người cai trị thực tế của Thượng Ai Cập trong Vương triều thứ Hai mươi mốt và 22. Tên của họ được khắc trong đồ hình và chôn cất trong các lăng mộ hoàng gia.

Vương triều thứ Hai mươi hai

Các pharaon cai trị là người Lybia, kéo dài từ năm 943-728 TCN:

Vương triều thứ Hai mươi ba

Vương triều thứ Hai mươi ba là nhóm các vị vua địa phương, có nguồn gốc Libya, đóng đô tại Herakleopolis và Thebes trong giai đoạn từ năm 837-735 TCN

Rudamun đã được kế vị ở Thebes bởi lãnh chúa địa phương:

Người Libu

Không được công nhận là một Vương triều, người Libu là nhóm dân tộc du mục từ phía Tây (Libya) chiếm đóng và kiểm soát phía Tây đồng bằng sông Nile từ năm 805-732 TCN.

Vương triều thứ Hai mươi tư

Vương triều thứ Hai mươi tư là Vương triều ngắn ngủi trong lịch sử nằm ở phía Tây đồng bằng sông Nile (Sais). Vương triều này chỉ có 2 vị vua cai trị từ 732-720 TCN.

Thời Hậu nguyên

Thời Hậu nguyên kéo dài từ năm 732 TCN cho đến khi Ai Cập trở thành tỉnh thuộc La Mã vào năm 30 TCN. Bao gồm các thời kỳ cai trị của người Nubia, Ba Tư, và Macedonia.

Vương triều thứ Hai mươi lăm

Người Nubia xâm chiếm Hạ Ai Cập và lên ngôi vua của Ai Cập dưới Vương triều Piye mặc dù họ đã kiểm soát vùng Thượng Ai Cập và Thebes vào giai đoạn đầu Vương triều của Piye. Piye chinh phạt Hạ Ai Cập và thiết lập Vương triều thứ Hai mươi lăm cai trị tới năm 656 TCN.

Cuối cùng họ bị đẩy lui về Nubia, ở đây họ thành lập vương quốc tại Napata (656–590), và sau đó tại Meroë (590 TCN – thế kỷ thứ Tư công nguyên).

Vương triều thứ Hai mươi sáu

Vương triều thứ Hai mươi sáu cai trị khoảng từ năm 672-525 trước Công nguyên.

Vương triều thứ Hai mươi bảy (thời kỳ Ba Tư thứ nhất)

Ai Cập bị đế quốc Ba Tư chinh phạt vào năm 525 TCN và sáp nhập vào Ba Tư tới năm 404 TCN. Các shahenshahs của Vương triều Achaemenes được công nhận là pharaon trong thời kỳ này.

Vương triều thứ Hai mươi tám

Vương triều thứ Hai mươi tám kéo dài từ năm 404-398 TCN chỉ với một pharaon.

Vương triều thứ Hai mươi chín

Vương triều thứ Hai mươi chín vì từ 398-380 TCN.

Vương triều thứ Ba mươi

Vương triều thứ Ba mươi kéo dài từ 380 TCN đến khi Ai Cập bị Ba Tư cai trị một lần nữa vào năm 343 TCN.

Vương triều thứ Ba mươi mốt (thời kỳ Ba Tư lần thứ Hai)

Ai Cập tiếp tục bị cai trị bởi Vương triều Achaemenes của Ba Tư. Theo Manetho, những vị vua Ba Tư cai trị từ năm 343 tới 332 TCN.

Vương triều Argead

Alexander Đại đế của Macedonia chinh phạt thành công Ba Tư và Ai Cập. Vương triều Argead cai trị từ 332-309 TCN.

Vương triều Ptolemaic

Vương triều của Hy Lạp thứ hai, nhà Ptolemaios đã cai trị từ năm 305 TCN đến khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã vào năm 30 TCN (có nhiều niên đại với thời gian chồng chéo lên nhau, có nghĩa là đã có một giai đoạn đồng trị vì). Thành viên nổi tiếng nhất của Vương triều này là Cleopatra VII, còn được gọi giản đơn là Cleopatra, từng là người tình của Julius Caesar, sau khi Julius Caesar qua đời thì bà đã cưới Mark Antony và có hai người con với ông. Cleopatra đã cố gằng xây dựng mối liên minh giữa Ai Cập và La Mã nhưng với việc Julius Caesar bị ám sát và thất bại của Mark Antony đã khiến cho kế hoạch của bà sụp đổ. Caesarion (Ptolemaios XV Philopator Philometor Caesar) là vị vua cuối cùng thuộc Vương triều Ptolemaios của Ai Cập, ông đã cùng cai trị với mẹ mình là Cleopatra VII của Ai Cập từ ngày 2 tháng 9 năm 47 TCN. Ông là con trai cả của Nữ hoàng Cleopatra VII, và có thể là con trai duy nhất của Julius Caesar. Sau cái chết của Cleopatra VII vào ngày 12 tháng 8, năm 30 TCN, ông trở thành người cai trị duy nhất. Sau đó ông bị hành quyết theo lệnh của Octavian vào ngày 23 tháng 8, năm 30 TCN, Ai Cập tiếp đó bị sáp nhập thành một tỉnh La Mã.

La Mã

Cleopatra có cuộc tình với nhà độc tài của La Mã Julius Caesar và thống chế La Mã Mark Antony (Marcus Antonius). Sau khi Marcus Antonius bị sát hại bởi Octavian (sau này là hoàng đế Augustus) bà tự tử. Và Ai Cập sáp nhập thành tỉnh của La Mã từ năm 30 TCN. Các Hoàng đế La Mã tiếp theo vẫn tiếp tục sử dụng danh hiệu Pharaon cho sự cai trị của mình tại Ai Cập. Hoàng đế La Mã cuối cùng được trao tước hiệu Pharaon là Maximinus Daia (trì vì từ 311–313 CN). Danh sách Hoàng đế La Mã sử dụng danh hiệu pharaon và bao gồm cả Decius, xem tại Danh sách Hoàng đế La Mã.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
**Manetho** là một nhà sử học đồng thời là giáo sĩ Ai Cập cổ đại, sinh trưởng ở miền Heliopollis vào khoảng thế kỷ 4 TCN. Dưới sự bảo trợ của vua Ptolemée I, ông
nhỏ|Một góc tại trung tâm thung lũng, xung quanh khu lăng mộ [[KV62 của Tutankhamun ở Thung lũng phía Đông]]**Danh sách lăng mộ ở Thung lũng các vị Vua** liệt kê tất cả 65 ngôi
nhỏ|300x300px|Danh sách vua Karnak (Bản vẽ năm 1843) **Danh sách vua Karnak** là danh sách những pharaon cai trị trong thời kỳ đầu của lịch sử Ai Cập cổ đại, được khắc trên tường của
nhỏ|500x500px|Các phần (nguyên bản) được tìm thấy của **Danh sách Vua Turin****Danh sách Vua Torino** hay **Niên biểu các vị vua Torino** là một bằng chứng khảo cổ của Ai Cập cổ đại, được viết
**Danh sách Vua Abydos** là một danh sách liệt kê tên gọi, niên hiệu của 76 vị vua Ai Cập cổ đại, được tìm thấy trên các bức tường đền thờ của Pharaon Seti I
Trong lịch sử Ai Cập cổ đại, mỗi vương triều là thời kỳ mà các vị pharaon cùng chung dòng tộc hoặc trong cùng gia đình nối tiếp cai trị vương quốc. Ai Cập cổ
Ai Cập phê chuẩn Công ước Di sản thế giới của UNESCO vào ngày 7 tháng 2 năm 1974. Từ đó, các địa điểm văn hóa và tự nhiên của quốc gia này đủ điều
**Den**, còn được gọi là **Hor-Den**, **Dewen** và **Udimu** (T.K. 30 TCN—2995 TCN), là tên Horus của một vị vua thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua được
**Ba**, còn được biết đến là **Horus Ba** (2650 TCN—?), là tên serekh của một vị vua tiền triều đại của Ai Cập hoặc Ai Cập cổ đại, ông có thể đã trị vì vào
**Weneg** (hoặc **Uneg**), còn được gọi là **Weneg-Nebty**, là tên gọi khi lên ngôi của một vị vua Ai Cập, ông là một vị vua của Vương triều thứ Hai. Thời gian cai trị của
**Teti**, còn được biết đến với tên gọi ít phổ biến hơn là **Othoes**, được đọc là **Tata** và phát âm là **Atat** hay **Athath**, là vị pharaon đầu tiên thuộc vương triều thứ Sáu
**Tấm bảng Saqqara**, hiện tại đang được lưu giữ tại Bảo tàng Ai Cập, là một bản khắc đá cổ đại tồn tại từ Thời kỳ Ramesside của Ai Cập cổ đại ghi chép danh
**Pharaon** (tiếng Copt: ⲡⲣ̅ⲣⲟ Pǝrro; phiên âm tiếng Việt: _Pharaông_; trong tiếng Ai Cập cổ có nghĩa là "_ngôi nhà vĩ đại_") là tước hiệu chỉ các vị vua của Ai Cập cổ đại từ
**Lời nguyền của các Pharaon** là lời nguyền cho bất kỳ ai xâm phạm lăng mộ của người Ai Cập cổ đại, nhất là lăng mộ của các vị vua Ai Cập, các Pharaon, thì
thumb|Minh họa này, từ "Cuộn giấy cói của Hunefer" (khoảng năm 1275 TCN), cho thấy nghi lễ "cân trái tim" trong Sách Chết. Trái tim của Hunefer được đặt trên đĩa cân của [[Ma'at để
**Hatshepsut** hay **Hatchepsut** (), (khoảng 1508-1458 TCN) là con gái của pharaon Thutmosis I đồng thời vừa là chị cùng cha khác mẹ vừa là vợ của pharaon Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Menes** (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Pepi I Meryre** (hay **Pepy I**) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ Sáu của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông kéo dài hơn 40 năm bắt đầu từ giai đoạn khoảng
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Shepseskaf** là vị pharaon thứ sáu và cũng là vị vua cuối cùng của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ Vương quốc của Ai Cập. Ông đã cai trị một triều đại kéo
**Amenhotep II** (hay **Amenophis II**, có nghĩa là "Thần Amun hài lòng") là vị pharaon thứ bảy của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Amenhotep thừa hưởng vương quốc rộng lớn từ vua cha
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Userkare** (còn được gọi là **Woserkare**, có nghĩa là "Hùng mạnh khi là linh hồn của Ra") là vị pharaon thứ hai của vương triều thứ sáu, ông chỉ trị vì trong một thời gian
**Khufu** ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là **Cheops** hay **Kheops**; tên đầy đủ là **Khnum Khufu** ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư
**Seth-Peribsen** (còn được gọi là **Ash-Peribsen, Peribsen** và **Perabsen)** là tên serekh của một vị vua Ai Cập thuộc vương triều thứ hai (khoảng từ năm 2890- năm 2686 trước Công nguyên) Tên hoàng gia
**Ramesses XI** (còn được viết là **Ramses** và **Rameses**) trị vì từ năm 1107 TCN đến 1078 TCN hay năm 1077 TCN, ông là vị vua thứ mười cũng là pharaon cuối cùng của Vương
**Netjerkare Siptah** (cũng là **Neitiqerty Siptah** và có thể là nguyên mẫu của nhân vật huyền thoại **Nitocris**) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ 7 và là
**Djedkheperew** (còn được biết đến là **Djedkheperu**) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 13, ông trị vì trong khoảng 2 năm, từ khoảng năm 1772 TCN cho tới
:_Xem Amenemhat, đối với những người có cùng tên gọi này._ **Seankhibre Ameny Antef Amenemhet VI** là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn đầu vương triều thứ 13, ông đã cai trị vào
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
**Menkare** là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua đầu tiên hoặc thứ hai của vương triều thứ tám. Menkare có thể đã cai trị một thời gian ngắn trong giai
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Narmer** (3273 TCN—2987 TCN) là một vị vua Ai Cập cổ đại trong giai đoạn Sơ triều đại Ai Cập. Ông có lẽ là người đã kế vị vua Scorpion II hoặc Ka và còn
**Maaibre Sheshi** (cũng là **Sheshy**) là một vị vua của các vùng đất thuộc Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Vương triều, vị trí trong biên niên sử, khoảng thời gian và
**Djer** (3115?—3040 TCN?) được coi là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều đầu tiên của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng giữa thế kỷ 31 TCN và cai trị trong khoảng 40
**Huni**, hay **Hoeni**, (2637 TCN - 2613 TCN) là vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 3 thuộc thời kỳ Cổ Vương Quốc. Theo bản danh sách vua Turin, ông thường được coi là
**Khutawyre Wegaf** (hoặc **Ugaf**) là một pharaon thuộc vương triều thứ Mười Ba của Ai Cập. Ông được biết đến từ một vài nguồn, bao gồm một tấm bia đá và các bức tượng. Có
**Neferkare VII** là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ 9 của Ai Cập cổ đại, khoảng năm 2140 TCN (trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ nhất), theo như bản _danh sách vua Turin_
**Sekhemkhet** (còn được gọi là **Sechemchet**) là một vị pharaon của Vương triều thứ 3 thuộc thời kì Cổ Vương Quốc. Triều đại của ông được cho là kéo dài từ khoảng năm 2648 TCN
**Neferkamin Anu** là một pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ nhất. Theo bản Danh sách vua Abydos và lần phục dựng gần đây nhất của Kim Ryholt đối với
**Mentuhotep I** (cũng còn là **Mentuhotep-aa**, tức là "Vĩ Đại" ) có thể là một lãnh chúa Thebes và một vị vua độc lập ở vùng Thượng Ai Cập trong suốt thời kỳ Chuyển tiếp