✨Intef II

Intef II

Wahankh Intef II (cũng là Inyotef IIAntef II) là vị vua thứ 3 thuộc Vương triều thứ Mười Một của Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. Ông đã trị vì trong gần 50 năm từ năm 2112 TCN tới năm 2063 TCN.. Điều này dường như sẽ được chứng thực nhờ vào một cuộc viễn chinh do Djemi lãnh đạo từ Gebelein đến vùng đất của Wawat. (tức là: Nubia) dưới triều đại của ông.

Tước hiệu

Intef II dường như chưa bao giờ giữ một tước hiệu hoàng gia đầy đủ 5 phần của các vị pharaon Cổ Vương quốc. Tuy nhiên, ông đã tuyên bố vương quyền kép nswt bity và tước hiệu s3-Re Người con trai của thần Ra, mà nhấn mạnh tính thiêng liêng của vương quyền. Tấm bia mộ được chạm khắc tinh xảo của ông ta ngày nay nằm tại Bảo tàng Anh Quốc, cho thấy rằng Intef II tuyên bố ngai vàng kép của Ai Cập nhưng cũng công nhận phạm vi giới hạn đối với sự thống trị của ông: "Horus Wahankh, Vua của Thượng và Hạ Ai Cập, Người con trai của Re, Intef, sinh ra bởi Nefru, Ngài là người sống bất tử như Re, [...] vùng đất này nằm dưới sự cai trị của ngài phía Nam xa tới tận Yebu và trải dài về phía Bắc tới Abydos". Tjetjy tiếp đó đã miêu tả sự nghiệp của ông ta theo phong cách tự tán dương điển hình của những người Ai Cập ưu tú. Quan trọng nhất, bản văn khắc này cho thấy rõ uy quyền được thừa nhận của các vị vua thuộc vương triều thứ 11 của Thebes "Ta là một sủng thần tin cẩn của đức vua mình, một vị quan cao quý có trái tim và sự thanh thản của tâm trí trong cung điện của đức vua mình [...]. Ta là một người yêu cái tốt và ghét điều ác, người được yêu mến trong cung điện của đức vua mình, người thực hiện bất cứ bổn phận trong sự phục tùng đối với ước muốn của đức vua mình. Thực vậy, với bất cứ nhiệm vụ mà ngài ra lệnh ta thực hiện [...], Ta thực hiện nó công bằng và chính đáng. Chưa bao giờ ta không tuân theo các mệnh lệnh ngài đã giao cho ta; Chưa bao giờ ta đổi một công việc nào cho người khác [...]. Hơn nữa, với bất cứ bổn phận của cung điện hoàng gia mà sự oai nghiêm của đức vua mình đã giao phó cho ta, và đó là nguyên do ngài sai khiến ta thực hiện một vài nhiệm vụ, Ta đã làm điều đó vì ngài theo đúng mọi điều mà Ka của ngài mong muốn." *Hetepy là một vị quan tới từ Elkab, ông ta đã cai quản 3 nome xa nhất về phía Nam thuộc vương quốc của Intef II. Điều này có nghĩa rằng không có vị nomarch nào nằm trong các vùng lãnh thổ dưới sự kiểm soát của phe Thebes. Giống như trường hợp của Tjetjy, việc nhắc đến vị vua này liên tục trong tấm bia đá của Hetepy cho thấy sự tập trung hóa về tổ chức của chính quyền vương quốc Thebes và quyền lực của nhà vua: "Ta là một người được yêu quý của đức vua mình và được khen ngợi bởi chúa tể của vùng đất này và bệ hạ đã thực sự khiến cho kẻ đầy tớ này vui sướng. Bệ hạ đã nói: 'Không một ai [...] hoàn toàn mệnh lệnh(của ta), ngoài Hetepy!', và kẻ đầy tớ này đã làm nó cực kỳ tốt, và bệ hạ đã khen ngợi kẻ đầy tớ này dựa trên giá trị của nó". Trên thực tế, Intef II đã khởi đầu một truyền thống của các hoạt động xây dựng công trình hoàng gia trong những ngôi đền ở các tỉnh của Thượng Ai Cập mà đã kéo dài suốt thời kỳ Trung Vương quốc.

Lăng mộ

Ngôi mộ của Intef tại El-Tarif ở Thebes là một ngôi mộ saff. Saff có nghĩa là "hàng" trong tiếng Ả rập và ám chỉ đến những hàng cột đôi và các lối vào phía trước một sân lớn hình thang có kích thước , ở đầu phía đông của nó là một nhà nguyện tang lễ. Nhà nguyện này có thể được dùng để phục vụ cho mục đích tương tự như một ngôi đền thung lũng.

Ngôi mộ của Intef II đã được kiểm tra bởi một hội đồng hoàng gia dưới triều đại của Ramses IX, vào giai đoạn cuối vương triều thứ 20, bởi vì nhiều ngôi mộ hoàng gia đã bị cướp bóc vào thời điểm đó. Theo những gì được thuật lại trên cuộn giấy cói Abbott, hội đồng trên đã ghi chép rằng: "Ngôi mộ kim tự tháp của vua Si-Rêˁ In-ˁo (i.e. Intef II) nằm ở phía bắc sân trước ngôi nhà của Amenḥotpe và có kim tự tháp bị vỡ vụn ở phía trên nó [...]. Đã kiểm tra ngày hôm nay; nó được thấy là nguyên vẹn." Không có tàn tích nào của kim tự tháp này được tìm thấy cho tới nay. Một tấm bia đá đề cập tới những chú chó của vị vua này cũng được cho là đã được dựng lên ở phía trước ngôi mộ trên. Một tấm bia đá khác đề cập tới một chú chó tên là Beha đã được phát hiện, nhưng nó được tìm thấy ở gần nhà nguyện dâng lễ vật.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Wahankh Intef II** (cũng là **Inyotef II** và **Antef II**) là vị vua thứ 3 thuộc Vương triều thứ Mười Một của Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. Ông đã trị vì
**Intef III** là vị pharaon thứ ba thuộc Vương triều thứ 11, ông cai trị trong giai đoạn cuối Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất và vào thế kỷ 21 TCN, đây là thời điểm
**Nebhotepre Mentuhotep II** (cai trị: 2046 TCN - 1995 TCN) là vị pharaon đã sáng lập ra Vương triều thứ 11 thuộc Ai Cập cổ đại, vương triều đầu tiên của thời Trung Vương quốc.
**Sehertawy Intef I** là một lãnh chúa địa phương ở Thebes trong giai đoạn đầu Thời kỳ chuyển tiếp thứ Nhất và là vị vua đầu tiên của vương triều thứ 11 sử dụng một
**Sobekemsaf II** (đầy đủ hơn là **Sekhemre Shedtawy Sobekemsaf**) là một vị vua thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Vương triều thứ 17. Ông cai trị Ai Cập vào những năm 1570 TCN,
**Nubkheperre Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V**, **Intef VI** hoặc **Intef VII**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập,
**Sekhemre-Wepmaat Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V** hoặc **Intef VI**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập, khi đất
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu I và Neferu III._ **Neferu II** ("_Sắc đẹp_") là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Mentuhotep I** (cũng còn là **Mentuhotep-aa**, tức là "Vĩ Đại" ) có thể là một lãnh chúa Thebes và một vị vua độc lập ở vùng Thượng Ai Cập trong suốt thời kỳ Chuyển tiếp
**Neferu**, có ý nghĩa là "_Sắc đẹp_", là tên gọi của một vài người phụ nữ quý tộc sống vào thời Ai Cập cổ đại. Tên gọi này có thể chỉ đến những người sau:
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu II và Neferu III._ **Neferu I** là vương hậu đầu tiên của Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là
Đây là danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước trong thiên niên kỷ 4 và 3 trước Công nguyên (4000–2001 trước Công nguyên). ## Châu Phi: Đông Bắc ### Hạ Ai Cập ### Thượng
**Merikare** (cũng là **Merykare** và **Merykara**) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 10, ông đã sống vào giai đoạn gần cuối thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. Tên
**Wahkare Khety** là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 9 hoặc vương triều thứ 10 trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. ## Danh tính Danh tính của Wahkare
**Sekhemre Wadjkhaw Sobekemsaf** (gọi tắt là **Sobekemsaf I**) là một pharaon thuộc Triều đại thứ 17 của Ai Cập cổ đại. Ông xuất hiện qua những dòng văn tự về những cuộc khai thác mỏ
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
**Sobekemsaf**, mang ý nghĩa "_Thần Sobek bảo vệ ông ta_", là một cái tên khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Mặc dù về mặt ngữ nghĩa,
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Senakhtenre Ahmose** là vị vua thứ bảy thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Ông cai trị Thebes của Thượng Ai Cập trong một thời gian ngắn