Senakhtenre Ahmose là vị vua thứ bảy thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Ông cai trị Thebes của Thượng Ai Cập trong một thời gian ngắn (có lẽ vài tháng đến 1 năm) khi người Hyksos chiếm đóng Hạ Ai Cập. Senakhtenre có thể mất vào năm 1558 TCN hoặc 1560 TCN.
Gia đình
Không rõ Senakhtenre có phải là con của pharaoh Nubkheperre Intef hay không. Ông có 4 người con: pharaoh Seqenenre Tao và 3 công chúa khác: nữ hoàng Ahhotep I, Ahmose-Inhapiy và Sitdjehuty; cả 3 đều là vợ của Seqenenre Tao. Người phối ngẫu duy nhất của ông là hoàng hậu Tetisheri, không mang dòng máu hoàng gia, nhận danh hiệu "Người vợ hoàng gia vĩ đại" và được gọi là "Mẹ của mẹ tôi" bởi Ahmose I, cháu của bà.
Tên riêng
Theo cuộn giấy Abbott Papyrus, có 2 vị vua cùng mang tên là Tao. Tao I được đề cập trong đó chính là Seqenenre Tao và tên riêng của ông được viết đầy đủ. Vì vậy, giả thuyết Tao II được cho là Senakhtenre đã chiếm ưu thế mãi đến năm 2012, được đồng tình bởi nhà nghiên cứu Darrell Baker; mặc dù điều này vẫn còn gây tranh cãi. Như nhà Ai Cập học Claude Vandersleyen đã bác bỏ quan điểm này vào năm 1983. Hơn nữa, giáo sư Kim Ryholt cho rằng Siamun mới là tên gọi của Senakhtenre.
Vào năm 2012, nhà Ai Cập học người Pháp Sébastien Biston-Moulin đã phát hiện tên đầy đủ của Senakhtenre trên một cánh cổng và một mảnh vỡ đá vôi tại đền thờ Amun thuộc khu đền thờ Karnak. Cánh cổng cho thấy tên riêng của ông là Ahmose. Theo những dòng văn tự trên cánh cổng, Senakhtenre đã cho dựng ngôi đền này để thờ Amun-Ra, loại đá vôi xây đền được vận chuyển từ thành phố Tura ở Hạ Ai Cập (nằm giữa Cairo and Helwan ngày nay). Ngoài ra, tên của ông cũng được khắc trên 2 ngôi mộ thuộc Thebes, theo Donald Redford.
Những dòng chữ khắc trên cổng đền thờ và mảnh vỡ đá vôi được tìm thấy tại Karnak khẳng định rằng tên riêng của ông là Ahmose chứ không phải Tao như mọi người đã nghĩ, theo Biston-Moulin viết trong phần tóm tắt bài báo cáo của ông.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Senakhtenre Ahmose** là vị vua thứ bảy thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Ông cai trị Thebes của Thượng Ai Cập trong một thời gian ngắn
**Ahmose** là một cái tên khá phổ biến, được đặt cho cả nam và nữ quý tộc trong văn hóa Ai Cập cổ đại, mang ý nghĩa là "_Đứa con của thần Mặt trăng_". Tên
**Ahmose I**, hay **Ahmosis I** hoặc **Amasis I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại và là người sáng lập ra Vương triều thứ 18. Ông là thành viên của hoàng gia Thebes, con
**Ahmose-Nefertari** (1562 TCN – 1495 TCN), cái tên có nghĩa là _"Mỹ nhân sinh bởi thần Mặt trăng"_, là vị Vương hậu đầu tiên của triều đại thứ 18. Bà là chánh thất vương hậu
**Ahmose-Inhapy** hoặc **Ahmose-Inhapi** là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ cuối Vương triều thứ 17 - đầu Vương triều thứ 18 trong lịch sử Ai Cập cổ đại.
**Seqenenre Tao** (hay **Seqenera Djehuty-aa**, **Sekenenra Taa** hoặc **The Brave**) là vị pharaon cai trị cuối cùng của vương quốc địa phương thuộc Vương quốc Thebes, Ai Cập, trong Vương triều XVII trong Thời kỳ
**Tetisheri** là Chính cung hoàng hậu của pharaon Senakhtenre Ahmose trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Gia quyến Tetisheri là con gái của ông Tjenna và bà Neferu. Tên cha mẹ của bà
**Ahhotep I** (được đọc là **Ahhotpe** hay **Aahhotep**, nghĩa là _"Hòa bình của Mặt Trăng"_), là một Vương hậu của Ai Cập cổ đại, bà sống vào khoảng những năm 1560 TCN đến 1530 TCN,
**Sitdjehuti** (hay **Satdjehuti**; _"Con gái của thần Thoth"_) là một công chúa và là hoàng hậu vào những năm cuối cùng của Vương triều thứ 17. Bà được sắc phong 3 danh hiệu: _"Vợ của
**Sekhemre-Heruhirmaat Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef VII** hoặc **Intef VIII** trong một số tài liệu, là một pharaoh thuộc Vương triều thứ bảy của Ai Cập cổ đại. Ông cai trị
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập** là một thời đại của lịch sử Ai Cập, đánh dấu một khoảng thời gian khi Vương quốc Ai Cập bị rơi vào tình trạng hỗn
**Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập** (**Vương triều thứ 17**) là một triều đại vua trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên.