Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập là một thời đại của lịch sử Ai Cập, đánh dấu một khoảng thời gian khi Vương quốc Ai Cập bị rơi vào tình trạng hỗn loạn và dẫn đến sự kết thúc của Trung Vương quốc Ai Cập. Sau Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai là sự bắt đầu của thời kỳ mới, Tân Vương quốc.
Giai đoạn này được biết đến như là lúc mà người Hyksos xuất hiện ở Ai Cập và họ đã cai trị Vương triều thứ Mười lăm.
Sự kết thúc của Trung Vương quốc
Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập đã sụp đổ và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ 19 trước Công nguyên, với cái chết của Nữ hoàng Ai Cập Sobekneferu (1806-1802 TCN). Vương triều thứ 12 kết thúc vì bà đã không có người con nào để thừa kế ngai vàng, khiến cho vương triều của bà kết thúc bất ngờ và Vương triều thứ Mười ba được thành lập. Triều đại này đã rất thành công bởi có nhiều lợi thế hơn, giúp vương quốc phát triển cao độ. Họ đã giành lại được vương quốc từ Itjtawy ("Hai-vùng-đất-bị-chiếm") gần thủ đô Memphis và Lisht, ngay phía nam của gốc Đồng bằng châu thổ sông Nin.
Vương triều thứ Mười ba có sự chú ý đến sự nhập cảnh chính thức được công nhận của những người thuộc vương quốc của vua nhóm ngôn ngữ Semit, Khendjer ("Boar"). Vương triều thứ Mười ba đã được cho rằng họ đã không cai trị, giữ toàn bộ vùng lãnh thổ của Ai Cập, tuy nhiên họ có cai trị một tỉnh ở Tây Nam Á, có gốc ở Avaris nằm trong khu vực đầm lầy phía đông đồng bằng châu thổ sông Nin, tách ra khỏi các trung tâm chính trị và thủ đô của nhà nước mình để lập ra một triều đại song hành, Vương triều thứ Mười bốn của Ai Cập.
Vương triều thứ Mười lăm của Ai Cập
Khoảng thời gian mà Vương triều thứ Mười lăm cai trị trong khoảng từ năm 1650 đến 1550 trước Công nguyên. Các pharaon cai trị trong triều đại này được biết đến như sau:
- Salitis
- Sakir-Har
- Khyan
- Apophis, c. 1590? -1550 TCN
- Khamudi, c. 1550 -1540 TCN
Vương triều thứ Mười sáu của Ai Cập
Ở triều đại này đã tiếp tục xảy ra cuộc chiến tranh chống lại một vương triều nhỏ thống trị trong thời gian ngắn ngủi trong vương triều thứ 16. Quân đội của Vương triều thứ 15, đánh chiếm được một thành phố ở miền nam của kẻ thù, liên tục tấn công và xâm chiếm vào lãnh thổ của Vương triều 16. Cuối cùng họ đe dọa và sau đó chinh phục được Thebes. Trong những nghiên cứu của nhà Ai Cập học Kim Ryholt đề nghị rằng Dedumose I đã đưa ra một thỏa thuận hòa bình trong năm cai trị thứ hai của ông nhưng người tiền nhiệm ông, Nebiryraw I có thể có được nhiều thành công hơn và có vẻ như có một khoảng thời gian hòa bình trong vương triều của ông.
Vương triều thứ Mười bảy của Ai Cập
Vương triều thứ 17 bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên.
Nó chủ yếu được hình thành ở Thebes, các vị pharaon hiện đại đã đấu với những người Hyksos và thành công trong Vương triều thứ Mười sáu, cũng dựa vào Oedipus.
Vào năm 2012, các nhà khảo cổ người Pháp đã kiểm tra một cửa đá vôi trong việc xây dựng ngôi đền Amun-Ra tại Luxor và họ phát hiện ra những chữ tượng hình với tên Senakhtenre, bằng chứng đầu tiên của sự hiện diện vua này.
Hai vị vua cuối cùng của vương triều thứ 17 phản đối việc người Hyksos cai trị Ai Cập, bắt đầu một cuộc chiến tranh chống lại vua Hyksos và bắt đầu một giai đoạn thống nhất mới là thời kỳ Tân Vương quốc.
Kamose II, con trai của Sequenenre Tao là vị vua cuối cùng của Vương triều thứ XVII, là anh trai của Ahmose I – vị vua đầu tiên của Vương triều thứ mười tám.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thời kì Chuyển tiếp thứ Nhất của Ai Cập** hay **Thời kì Trung gian thứ Nhất** là một khoảng thời gian trong lịch sử Ai Cập, thường được mô tả như một "thời kì đen
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập** là một thời đại của lịch sử Ai Cập, đánh dấu một khoảng thời gian khi Vương quốc Ai Cập bị rơi vào tình trạng hỗn
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**Vương triều thứ Mười Sáu của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 16**) là một triều đại của các vua cai trị ở Thượng Ai Cập trong vòng 70 năm từ năm 1650-1580 TCN.
**Vương triều thứ Mười Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 15**) là một triều đại các vua cai trị Ai Cập, kéo dài từ năm 1650 đến năm 1550 trước Công nguyên,
**Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 25**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Nubia** hoặc **Đế chế Kush** là vương triều cuối cùng của
**Vương triều thứ Hai Mươi Hai của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 22**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Bubastite**, kể từ khi các pharaon cai trị thành phố Bubastis.
nhỏ|Danh sách các pharaon của Vương triều thứ Hai theo [[Danh sách Vua Saqquara và Danh sách Vua Abydos.]] **Vương triều thứ Hai của Ai Cập cổ đại** (ký hiệu: **Vương triều thứ II**, từ
**Vương triều thứ Hai Mươi Mốt của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 21**) là một triều đại pharaon cai trị Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba. Thời kỳ này cũng
**Vương triều thứ Hai Mươi Bốn của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 24**) là một vương triều trong thời đại pharaon Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba, bao gồm các
**Vương triều thứ Hai Mươi Ba của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 23**) là vương triều trong lịch sử Ai Cập, thường được coi là một phần của Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
**Vương triều Abydos** (ký hiệu: **Triều Abydos**) là một vương triều ngắn ngủi đã cai trị ở một phần địa phương của Thượng Ai Cập, thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập
**Sharek** hoặc **Shalek** có thể là một vị pharaoh ít được biết đến của Ai Cập cổ đại trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. thumb|Phù điêu với tên của vua Sharek
**Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập** (**Vương triều thứ 17**) là một triều đại vua trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên.
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
Trong lịch sử Ai Cập cổ đại, mỗi vương triều là thời kỳ mà các vị pharaon cùng chung dòng tộc hoặc trong cùng gia đình nối tiếp cai trị vương quốc. Ai Cập cổ
**Vương triều thứ Mười Bốn của Ai Cập** (**Vương triều thứ 14**) là một triều đại vua cai trị Ai Cập trong lịch sử Ai Cập cổ đại, nằm trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
**Vương triều thứ Hai Mươi** (**Vương triều thứ 20**) của Ai Cập cổ đại là một vương triều thuộc thời kỳ Tân Vương quốc. Vương triều này cùng với hai Vương triều trước đó là
**Trung Vương quốc Ai Cập** là một giai đoạn trong lịch sử của Ai Cập cổ đại, tồn tại trong thời gian giữa khoảng năm 2050 trước Công nguyên, và 1700 trước Công nguyên, trải
**Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại** hay **Vương triều thứ 18** (bắt đầu năm 1543 TCN - kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ
**Thời kỳ vương triều Cổ xưa** hoặc **Sơ kỳ vương triều của Ai Cập** hay **Thời kỳ Tảo Vương quốc** bắt đầu ngay sau khi diễn ra sự thống nhất Hạ và Thượng Ai Cập
**Iytjenu** là một vị vua Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất, khoảng năm 2100 TCN. Có rất ít thông tin về ông được biết đến vì ông chỉ được chứng
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
**Người Hyksos** ( or ; tiếng Ai Cập: _heqa khasewet_, "các ông vua ngoại quốc"; tiếng Hy Lạp: _Ὑκσώς_ hay _Ὑξώς,_ tiếng Ả Rập: الملوك الرعاة, có nghĩa là: "các vị vua chăn cừu") là
**Seqenenre Tao** (hay **Seqenera Djehuty-aa**, **Sekenenra Taa** hoặc **The Brave**) là vị pharaon cai trị cuối cùng của vương quốc địa phương thuộc Vương quốc Thebes, Ai Cập, trong Vương triều XVII trong Thời kỳ
**Sehetepibre** Sewesekhtawy (cũng là **Sehetepibre I** hoặc **Sehetepibre II** tùy thuộc vào các học giả) là một vị pharaon Ai Cập thuộc vương triều thứ 13 trong giai đoạn đầu Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
Theo Manetho, **Salitis** (tiếng Hy Lạp _Σάλιτις_, còn là **Salatis** hoặc **Saites**) là vị vua người Hyksos đầu tiên, ông là người đã chinh phục và cai trị Hạ Ai Cập và sáng lập nên
**Nubkheperre Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V**, **Intef VI** hoặc **Intef VII**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập,
**Seheqenre Sankhptahi** là pharaon thứ 34 hoặc 35 của Vương triều thứ 13, thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Ông có lẽ trị vì trong một khoảng thời gian ngắn
**Senakhtenre Ahmose** là vị vua thứ bảy thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Ông cai trị Thebes của Thượng Ai Cập trong một thời gian ngắn
**Seankhenre Mentuhotepi** là một pharaon của Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Theo nhà Ai Cập học Kim Ryholt và Darrell Baker, ông là vị vua thứ năm của Vương triều thứ
**Sekhemre-Wepmaat Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V** hoặc **Intef VI**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập, khi đất
**Semenkare Nebnuni** (cũng đọc là **Nebnun** và **Nebnennu**) là một pharaon được chứng thực nghèo nàn thuộc giai đoạn đầu vương triều thứ 13 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Theo
**Nebmaatre** tên prenomen của một vị vua được chứng thực nghèo nàn thuộc thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Nebmaatre có thể là một thành viên thuộc giai đoạn đầu
_Đối với hoàng tử cùng tên, xem Rahotep (hoàng tử)_
**Sekhemrewahkhau Rahotep** là một vị pharaon cai trị vào thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Cả hai nhà Ai Cập
**Sehetepkare Intef** (còn được biết đến là **Intef IV** hoặc **Intef V**) là vị vua thứ 23 thuộc vương triều thứ 13 trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Sehetepkare Intef đã
**Seneferankhre Pepi III** là một pharaon thuộc của Vương triều thứ 16, thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Theo Wolfgang Helck ông là pharaon thứ năm của vương triều. Trái
**Seuserenre Bebiankh** là một người gốc Thebes, là pharaon Ai Cập cổ đại của Vương triều thứ 16 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Theo Kim Ryholt, ông là người kế
**Semenre**, cũng là **Smenre** or **Semenenre**, là một vị pharaoh được chứng thực nghèo nàn của Thebes trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập, ông đã kế vị một vị vua cũng
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
thumb|Con dao găm với tên Nebkhepeshre Apepi. **Apepi** (cũng là **Ipepi**; Tiếng Ai Cập **') hoặc **Apophis** (; tên trị vì **Neb-khepesh-Re**, **A-qenen-Re** và **A-user-Re''') là một vị vua của Hạ Ai Cập dưới thời
**Seankhibtawy Seankhibra** là tên của một vị vua Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 11 hoặc nhiều khả năng hơn là vương triều thứ 12 hoặc vương triều thứ Mười Ba của Ai
**Nuya** là một vị vua cai trị một số vùng của Hạ Ai Cập trong Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai, có thể là trong thế kỷ thứ XVII TCN. Nuya được chứng thực bởi
**Fathia của Ai Cập** (tên sau kết hôn _Fathia Ghali)_ () (17 tháng 12 năm 1930 - 10 tháng 12 năm 1976) là con gái út của Fuad I của Ai Cập và Nazli Sabri,
**Sobekemsaf**, mang ý nghĩa "_Thần Sobek bảo vệ ông ta_", là một cái tên khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập cổ đại. Mặc dù về mặt ngữ nghĩa,
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
**Pepi I Meryre** (hay **Pepy I**) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ Sáu của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông kéo dài hơn 40 năm bắt đầu từ giai đoạn khoảng
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La