✨Người Hyksos

Người Hyksos

Người Hyksos ( or ; tiếng Ai Cập: heqa khasewet, "các ông vua ngoại quốc"; tiếng Hy Lạp: Ὑκσώς hay Ὑξώς, tiếng Ả Rập: الملوك الرعاة, có nghĩa là: "các vị vua chăn cừu") là một dân tộc có nguồn gốc hỗn tạp, có thể đến từ Tây Á, họ đã định cư ở phía đông đồng bằng châu thổ sông Nile vào khoảng thời gian trước năm 1650 TCN. Sự xuất hiện của người Hyksos đã dẫn đến sự kết thúc của vương triều thứ Mười Ba của Ai Cập và bắt đầu thời kỳ Chuyển tiếp thứ hai của Ai Cập. Trong văn cảnh của Ai Cập cổ đại, thuật ngữ "người Châu Á" - vốn thường được sử dụng để chỉ người Hyksos - có thể dùng để nhắc đến tất cả các tộc người bản địa ở những vùng đất phía đông của Ai Cập.

Những cuộc di cư của các cư dân gốc Canaan đã diễn ra từ trước khi người Hyksos có mặt. Người Canaan xuất hiện lần đầu tiên ở Ai Cập vào cuối vương triều thứ 12, khoảng năm 1800 TCN hoặc khoảng năm 1720 TCN và đã thiết lập một vương quốc độc lập ở phía đông khu vực đồng bằng châu thổ sông Nile

Vào khoảng năm 1650 TCN, cả hai vương triều này đều đã bị người Hyksos xâm lược, họ sau đó thiết lập nên vương triều thứ 15. Sự sụp đổ của vương triều thứ 13 đã tạo ra một khoảng trống quyền lực ở phía nam, mà có thể đã dẫn tới sự trỗi dậy của vương triều thứ 16, có căn cứ tại Thebes, và có thể thêm cả một vương triều bản địa ở Abydos đã được đồng nhất với vị thần bão tố và sa mạc của người Ai Cập, Set . Người Hyksos là một tộc người châu Á có nguồn gốc hỗn tạp với thành phần chính là những người nói tiếng Semit. Mặc dù một số học giả đã nêu giả thuyết cho rằng người Hyksos có một phần là người Hurri, thế nhưng hầu hết các học giả khác đã loại bỏ khả năng này.Người Hurri nói một ngôn ngữ đơn lập, nhưng lại tuân theo các quy tắc và ảnh hưởng của ngữ hệ Ấn-Âu

Người Hyksos đã đem theo một số kỹ thuật mới đến Ai Cập, cùng với cả sự truyền bá về văn hoá như các nhạc cụ mới và những từ vay mượn từ nước ngoài .Những thay đổi được giới thiệu bao gồm các kỹ thuật mới trong gia công đồng và đồ gốm, các giống động vật và cây trồng mới loại cung ghép, những loại rìu chiến cải tiến và các kỹ thuật xây dựng công sự tiên tiến

Người Hyksos có các tên gọi như của người Canaan, cũng như được thấy trong các tên gọi các vị thần của người Semit như Anath hoặc Ba'al. Họ đã giới thiệu các kĩ thuật chiến tranh mới vào Ai Cập, đáng chú ý nhất là loại cung ghép và chiến xa do ngựa kéo.

Các vị vua người Hykos của Vương triều thứ 15 được biết đến bao gồm:

Vương quốc của người Hyksos có trung tâm nằm ở phía đông bằng sông Nile và miền trung Ai Cập và nó bị giới hạn về độ lớn, không bao giờ mở rộng về phía nam vào Thượng Ai Cập, mà vốn nằm dưới sự kiểm soát của các vị vua có căn cứ ở Theban. Người Hykos giao thiệp với miền nam dường như chủ yếu chỉ mang tính chất thương mại mặc dù các ông hoàng Theban dường như đã cộng nhận các vị vua cầm quyền Hyksos và có thể đã cống nạp cho họ trong một khoảng thời gian. Các vị vua của Triều đại mười lăm người Hyksos đã thiết lập kinh đô và bộ máy chính quyền tại Avaris. trái|A group of Asiatic peoples (perhaps the future Hyksos) depicted entering Egypt c.1900 [[TCN from the tomb of a 12th dynasty official Khnumhotep under pharaoh Senusret II at Beni Hasan. The glyphs above are above the head of the first animal]] Sự cai trị của các vị vua này đan xen với các vị pharaoh bản địa thuộc Triều đại thứ 16 và 17 của Ai Cập, được gọi là thời kỳ chuyển tiếp thứ hai. Vị vua đầu tiên của Triều đại thứ 18, Ahmose I, đã đánh đuổi hoàn toàn người Hyksos khỏi thành trì cuối cùng của họ tại Sharuhen thuộc Gaza vào năm thứ 16 Triều đại của ông. Các học giả đã lấy việc sử dụng ngày càng nhiều các scarab và sự chấp nhận một số hình thức của nghệ thuật nghệ thuật bởi các vị vua Triều đại mười lăm Hyksos và phân bố rộng rãi của chúng như là một dấu hiệu cho thấy họ đã dần trở thành Ai Cập hóa. Người Hyksos dùng các tước hiệu của Ai Cập kết hợp với vương quyền Ai Cập truyền thống, và vị thần Seth của Ai Cập để đại diện cho vị thần riêng của họ. Bất chấp sự thịnh vượng mà tình hình chính trị ổn định mang lại cho đất nước, những người Ai Cập bản địa tiếp tục để xem người Hyksos như những "kẻ xâm lược" không phải người Ai Cập.

Cuộc xâm lược của người Hyksos?

Theo tác phẩm của Manetho, cũng như được ghi chép lại bởi Josephus, sự xuất hiện của người Hyksos ở Ai Cập được mô tả như là một cuộc xâm lược vũ trang bởi một đám người man rợ nước ngoài chỉ gặp phải sự kháng cự yếu ớt và đã chinh phục đất nước bằng sức mạnh quân sự. Ông ghi lại rằng người Hyksos đã đốt cháy các thành phố, phá hủy các ngôi đền và biến phụ nữ và trẻ em làm nô lệ.

Người ta cho rằng những phương pháp mới mang tính cách mạng trong chiến tranh đã đảm bảo cho người Hyksos uy thế trong những đợt tràn vào và thành lập các khu thực dân mới ở vùng đồng bằng của Ai Cập và ở Thebes nhằm hỗ trợ thương mại Biển Đỏ. Herbert E. Winlock mô tả những vũ khí quân sự mới này chẳng hạn như loại cung ghép, cũng như độ uốn của cung được cải thiện và quan trọng nhất là chiến xa ngựa kéo, cũng như cải thiện đầu mũi tên, các loại kiếm và dao găm khác nhau, một loại thuẫn mới, loại áo giáp, và mũ giáp kim loại Theo giả thuyết này, những vị vua Ai Cập của Triều đại thứ 13 đã quá yếu để ngăn chặn những đợt di dân mới di chuyển đến Ai Cập từ châu Á và đang phải bận tâm để đối phó với nạn đói và bệnh dịch trong nước.

Tới khoảng năm 1700 trước công nguyên (chỉ hơn một trăm năm sau), Ai Cập đã bị chia rẽ về chính trị với hàng loạt các tiểu quốc địa phương mọc lên trong khu vực đồng bằng phía đông bắc. Một trong số đó là của vua Nehesy, mà kinh đô đặt tại Avaris và ông cai trị một bộ phận dân cư mà phần lớn là người Syro-Palestine đã định cư ở khu vực này trong Triều đại thứ 12 và những người đó có lẽ chủ yếu là binh sĩ, thủy thủ, thợ đóng tàu và những người thợ. Triều đại của ông có lẽ đã được thay thế bởi một Triều đại Tây-Semitic nói tiếng Syro-Palestine mà hình thành nên nền tảng cho vương quốc Hyksos sau này, và đã có thể bành trướng về phía nam bởi vì tình hình chính trị không ổn định, với sự trợ giúp của quân đội, "tàu, và các mối quan hệ ngoại quốc. ""

Bourriau lập luận rằng mô tả của Manetho về sự cai trị của người Hyksos được xác nhận bởi bằng chứng trong các bài văn của Kamose rằng Kamose từ chối tình trạng chư hầu, sự kiểm soát chặt chẽ biên giới tại Cusae, sự áp đặt thuế việc buôn bán trên sông Nile và sự tồn tại các đơn vị đồn trú của người châu Á dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh Ai Cập

Vào Triều đại thứ mười ba của Ai Cập, các lãnh chúa nước ngoài đã sử dụng tên gọi Pharaoh cho bản thân mình và sau đó bắt đầu chiến đấu vì nó.

Quân Thebes tấn công

Dưới thời Seqenenre Tao

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Hyksos** ( or ; tiếng Ai Cập: _heqa khasewet_, "các ông vua ngoại quốc"; tiếng Hy Lạp: _Ὑκσώς_ hay _Ὑξώς,_ tiếng Ả Rập: الملوك الرعاة, có nghĩa là: "các vị vua chăn cừu") là
**Maaibre Sheshi** (cũng là **Sheshy**) là một vị vua của các vùng đất thuộc Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Vương triều, vị trí trong biên niên sử, khoảng thời gian và
**Khamudi** (còn được biết đến là **Khamudy**) là vị vua Hyksos cuối cùng thuộc vương triều thứ Mười Lăm của Ai Cập. Khamudi lên ngôi vua vào năm 1534 TCN ## Chứng thực Khamudi được
**Kamose** là vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 17 của Ai Cập cổ đại thuộc thành Thebes (Ai Cập) vào thời kì chiến tranh với người Hyksos, lúc đó là Vương triều thứ
**Ahmose I**, hay **Ahmosis I** hoặc **Amasis I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại và là người sáng lập ra Vương triều thứ 18. Ông là thành viên của hoàng gia Thebes, con
Seuserenre **Khyan, Khian** hoặc **Khayan** là một vị vua người Hyksos thuộc vương triều thứ Mười Lăm của Ai Cập. Tên hoàng gia của ông Seuserenre dịch là "người mà Re ban cho sự mạnh
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
thumb|Con dao găm với tên Nebkhepeshre Apepi. **Apepi** (cũng là **Ipepi**; Tiếng Ai Cập **') hoặc **Apophis** (; tên trị vì **Neb-khepesh-Re**, **A-qenen-Re** và **A-user-Re''') là một vị vua của Hạ Ai Cập dưới thời
**Seqenenre Tao** (hay **Seqenera Djehuty-aa**, **Sekenenra Taa** hoặc **The Brave**) là vị pharaon cai trị cuối cùng của vương quốc địa phương thuộc Vương quốc Thebes, Ai Cập, trong Vương triều XVII trong Thời kỳ
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập** là một thời đại của lịch sử Ai Cập, đánh dấu một khoảng thời gian khi Vương quốc Ai Cập bị rơi vào tình trạng hỗn
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại** hay **Vương triều thứ 18** (bắt đầu năm 1543 TCN - kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
**Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập** (**Vương triều thứ 17**) là một triều đại vua trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên.
**Nubkheperre Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V**, **Intef VI** hoặc **Intef VII**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập,
**Sekhemre-Wepmaat Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V** hoặc **Intef VI**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập, khi đất
**Sewadjenre Nebiryraw** (còn gọi là **Nebiriau I**, **Nebiryerawet I**) là một pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 16 nằm tại Thebes, trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Ông trị vì
**Kim tự tháp Ahmose** tại Abydos được xây dựng bởi pharaon Ahmose I, vua đầu tiên thuộc thời kỳ Tân vương quốc. Đây là kim tự tháp cuối cùng được xây trên mảnh đất Ai
**Sharek** hoặc **Shalek** có thể là một vị pharaoh ít được biết đến của Ai Cập cổ đại trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. thumb|Phù điêu với tên của vua Sharek
**Wazad** là một pharaon của Ai Cập cổ đại trong thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai. Theo các nhà Ai Cập học Kim Ryholt và Darrell Baker, Wazad là một thành viên của vương triều
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
nhỏ|[[Hathor, nữ thần của dải Ngân Hà]] **Lịch sử Ai Cập** là lịch sử của một lãnh thổ thống nhất lâu đời nhất trên thế giới. Vùng Thung lũng sông Nin tạo một khối địa
phải|Cao bồi nước Mỹ năm [[1887]] **Cao bồi** là những người chăn dắt bò, thường trên lưng ngựa, tại các điền trang ở Bắc Mỹ. ## Từ nguyên Từ _cao bồi_ trong tiếng Việt bắt
**Thời đại đồ đồng** là một thời kỳ trong sự phát triển của nền văn minh khi phần lớn công việc luyện kim tiên tiến (ít nhất là trong sử dụng có hệ thống và
**Ramesses I**, hay **Ramses I** (còn có tên là **Pramesse** trước khi lên ngôi), là vị pharaon sáng lập ra Vương triều thứ 19 của Ai Cập cổ đại; sử gọi là triều Tiền Ramessid.
**Quần thể đền Karnak**, thường gọi tắt là **đền Karnak**, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của
Theo Manetho, **Salitis** (tiếng Hy Lạp _Σάλιτις_, còn là **Salatis** hoặc **Saites**) là vị vua người Hyksos đầu tiên, ông là người đã chinh phục và cai trị Hạ Ai Cập và sáng lập nên
**Djedhotepre Dedumose I** là một pharaoh Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp Thứ Hai. Theo các nhà Ai Cập học Kim Ryholt, Darrell Baker, Aidan Dodson và Dyan Hilton, ông là một vị vua
**Ahhotep I** (được đọc là **Ahhotpe** hay **Aahhotep**, nghĩa là _"Hòa bình của Mặt Trăng"_), là một Vương hậu của Ai Cập cổ đại, bà sống vào khoảng những năm 1560 TCN đến 1530 TCN,
**Sekhemre-Heruhirmaat Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef VII** hoặc **Intef VIII** trong một số tài liệu, là một pharaoh thuộc Vương triều thứ bảy của Ai Cập cổ đại. Ông cai trị
**Sobekemsaf II** (đầy đủ hơn là **Sekhemre Shedtawy Sobekemsaf**) là một vị vua thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Vương triều thứ 17. Ông cai trị Ai Cập vào những năm 1570 TCN,
**Senakhtenre Ahmose** là vị vua thứ bảy thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập. Ông cai trị Thebes của Thượng Ai Cập trong một thời gian ngắn
**Sekhemre Sementawy Djehuti** (cũng là **Djehuty**) có thể là vị vua thứ hai Djehuty được ghi lại là có một triều đại kéo dài 3 năm trong mục đầu tiên của cột thứ 11 trong
**Pi-Ramesses** (tiếng Ai Cập cổ đại: _Per-Ra-mes(i)-su_, "Nhà của Ramesses") là một kinh đô mới tại Qantir, gần đại điểm Avaris cũ, được xây dựng bởi vua Ramesses II thuộc Vương triều thứ 19. Thành
**Djedneferre Dedumose II** là một vị pharaon bản địa của Ai Cập cổ đại trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Theo các nhà Ai Cập học Kim Ryholt và Darrell Baker, ông là một
**Sekhemre Sankhtawy Neferhotep III Iykhernofret** là vị pharaon thứ ba hoặc thứ tư thuộc vương triều thứ 16 của Thebes, ông cai trị sau Sobekhotep VIII theo các nhà Ai Cập học Kim Ryholt và
**Sekhemre Seusertawy Sobekhotep VIII** có thể là vị vua thứ ba thuộc vương triều thứ 16 của Ai Cập, ông đã trị vì vùng đất Thebes ở Thượng Ai Cập trong Thời kỳ Chuyển tiếp
**Mersekhemre Ined** là một pharaoh thuộc giai đoạn cuối của vương triều thứ 13, có thể là vị vua thứ 35 của vương triều này. Ông có thể cũng chính là vị vua **Mersekhemre Neferhotep
**Sekhemrekhutawy Pantjeny** là một pharaon Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Theo các nhà Ai Cập học Kim Ryholt và Darrell Baker, ông là một vị vua thuộc về vương triều Abydos,
**Tấm bảng Saqqara**, hiện tại đang được lưu giữ tại Bảo tàng Ai Cập, là một bản khắc đá cổ đại tồn tại từ Thời kỳ Ramesside của Ai Cập cổ đại ghi chép danh
**Merneferre Ay** (còn viết là **Aya** hoặc **Eje**) là một pharaoh của Ai Cập cổ đại thuộc giai đoạn giữa vương triều thứ 13. Ông là vị pharaoh cai trị lâu nhất của vương triều
**Merkare** là một pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn cuối vương triều thứ 13 trong thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai, ông đã trị vì trong một thời gian ngắn vào khoảng thời gian giữa
**Sewadjare Mentuhotep** (còn được biết đến là **Mentuhotep V** hoặc Mentuhotep VI tùy thuộc vào học giả) là một vị pharaoh Ai Cập được chứng thực nghèo nàn của vương triều thứ 13, ông đã
**Sekhemraneferkhau Wepwawetemsaf** là một pharaon Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Theo các nhà Ai Cập học Kim Ryholt và Darrell Baker, ông là một vị vua thuộc vương triều Abydos, mặc
**Meruserre Yaqub-Har** (cách phát âm khác: **Yakubher**, còn được biết đến như là **Yak-Baal**) là một pharaon của Ai Cập vào thế kỷ thứ 17 hoặc 16 TCN. Vì ông cai trị Ai Cập trong
**Nehesy Aasehre** (**Nehesi**) là một vị vua của Hạ Ai Cập trong Thời kỳ chuyển tiếp Thứ Hai. Hầu hết các học giả xác định ông là một vị vua thuộc về giai đoạn đầu
**Khaneferre Sobekhotep IV** là một trong số những vị vua Ai Cập hùng mạnh thuộc vương triều thứ 13 (khoảng từ 1803 TCN tới khoảng năm 1649 TCN), ông đã trị vì ít nhất tám